Hồi ức không quên trong chiến thắng mùa Xuân 1975
Tiến về Sài Gòn - hành trình ký ức không bao giờ quên
Nhớ lại thời điểm cuối năm 1974, Đại tá Lường Văn Khoa (dân tộc Tày, năm nay đã 77 tuổi) được Bộ Tư lệnh Đoàn 27 điều về làm Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 13, Đoàn Đặc công 429 của miền Đông Nam Bộ, lúc này vị trí đứng chân ở rừng tràm Ba Làng (tên thời chiến, nay thuộc huyện Đức Huệ, Long An).
Nơi đây đất ẩm ướt, cây tràm cao chỉ hơn đầu người, trên ngọn dây tơ hồng phủ kín. Chỗ râm mát nhất là gốc tràm chỉ vừa đủ che cho một người ngồi nghỉ. Ấy vậy mà mỗi cán bộ, chiến sĩ phải đào một cái hầm, lấy cây tràm lót trên nắp, lấp đất lên, rồi trải cây lác bên trên để làm giường nằm ngủ. Khi có pháo của địch bắn trùm lên nơi đóng quân, tất cả phải nhảy xuống hầm trú ẩn, chỉ thò được đúng mỗi cái đầu lên khỏi miệng hầm, quần áo bên dưới ướt sũng.
Đại tá Lường Văn Khoa bồi hồi kể tiếp, nước ở đây còn bị nhiễm phèn nặng, muốn uống phải lấy khăn rằn buộc hai đầu lại như cái võng, sau đó đổ tro bếp vào để lọc nước.
“Có nước rồi cũng rất khó uống, lúc đầu ai không quen là đau bụng kiết lỵ, mà cả đoàn ai cũng bị vậy hết”, ông cười nhớ lại những niềm vui nho nhỏ trong gian khổ thời chiến.
Đại tá Lường Văn Khoa, nguyên Tiểu đoàn Trưởng Tiểu đoàn 13, Đoàn Đặc công 429 |
Mới về Tiểu đoàn 13 chưa lâu, ông đã nhận lệnh chiến đấu. Từ trưa 20/4/1975, cả đoàn bắt đầu hành quân lên Sài Gòn chờ lệnh. Khi Tiểu đoàn qua kênh Thầy Cai (bắt nguồn từ sông Sài Gòn và kết thúc tại điểm tiếp giáp với sông Vàm Cỏ Đông - Long An) lo nhất là 4 khẩu ĐKZ phải “vượt” sông. Nhờ có kỹ năng đặc công được rèn luyện trước đó nên mọi việc cũng hoàn thành một cách nhẹ nhàng.
Cũng chính lúc này đã xuất hiện một khoảnh khắc mà Đại tá Lường Văn Khoa khó diễn tả được bằng lời và không thể nào quên. Khi nhìn qua bên kia sông, lúc bấy giờ cũng có lực lượng Dân Chính Đảng hành quân song song với Tiểu đoàn. Những ánh mắt, nụ cười, cái vẫy tay đều diễn ra trong sự im lặng. Tuy cách cả một dòng sông nhưng không ngăn cách được sự đồng lòng, quyết tâm chiến đấu của toàn quân và dân ta lúc này.
Đại tá Lường Văn Khoa (bìa trái) chụp cùng Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Hoàng Thượng - Chính trị viên Tiểu đoàn 13 đánh vào Sài Gòn đêm 28/4 đến sáng 30/4/1975 (Ảnh chụp ngày 3/5/1975) |
Vẫn trong miền ký ức trên đường hành quân, ông nhớ lại, khoảng trưa hôm sau, ai trong đoàn cũng đói, lấy miếng lương khô ra ăn mà cắn mãi chẳng được vì quá khô và khát, còn bình toong nước đã cạn từ khi nào… Trong lúc này, ông lại nghe văng vẳng có tiếng người ra ám hiệu sẵn sàng, một lúc sau lại nghe cả tiếng khua vào ghe lộc cộc, ngó nhìn mãi hóa ra là các má từ cơ sở cách mạng giúp bộ đội ở ấp An Lạc (thời chiến địa điểm này ở Bình Chánh) đến đổi nước.
Khoảnh khắc ấy, đôi mắt người Tiểu đoàn Trưởng cùng những đồng đội đã nhòe đi, một phần mừng vì có nước trong cơn khát cùng cực nhưng có lẽ phần nhiều vì nghĩa tình quý giá của các má thời bấy giờ mang đến.
Chiến đấu, hy sinh vì độc lập và tự do dân tộc
Căn cứ Đài ra-đa Phú Lâm (Quận 6) được xem là trung tâm thông tin lớn và hiện đại nhất Châu Á lúc bấy giờ, với gần 800 nhân viên quân sự hoạt động. Quân đội Mỹ và chính quyền tay sai tự hào gọi căn cứ này là “mắt thần”.
Chính vì thế mà nơi này được bảo vệ vô cùng nghiêm ngặt, kiên cố, với nhiều lớp hàng rào dây thép gai, trên các lớp rào có cài nhiều mìn vướng nổ. Địch tổ chức canh gác cẩn mật suốt ngày đêm, muốn vào được căn cứ phải băng qua một cánh đồng rộng, trống trải, đầy bom mìn.
Cùng với các Tiểu đoàn khác, Tiểu đoàn 13 được giao nhiệm vụ đánh chiếm Đài ra-đa Phú Lâm, mũi tàu Quận 6, sau đó là đánh vào Tổng nha Cảnh sát.
Căn cứ Ra-đa Phú Lâm (Ảnh tư liệu) |
Đại tá Lường Văn Khoa nhớ lại, vào ngày 26/4/1975, Tiểu đoàn 13 được tăng cường thêm một đồng chí biệt động nữ quê Sài Gòn có nhiệm vụ dẫn đường đến mục tiêu đài ra-đa.
Sau những trận giao tranh ác liệt và cả sự hy sinh của nhiều chiến sĩ, cuối cùng quân Giải phóng đã chiếm toàn bộ Trung tâm thông tin Đài ra-đa Phú Lâm. Cùng lúc ấy, trên đài phát thanh thông báo Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, cờ giải phóng đã tung bay trên nóc Dinh Độc Lập.
Sau giải phóng, ông cho biết, mình vẫn may mắn có dịp gặp lại đồng chí Hòa - nữ biệt động Sài Gòn đã dẫn đường cho Tiểu đoàn 13 năm nào. Tuy nhiên, hệ lụy của chiến tranh có bao giờ tránh khỏi được hết những mất mát và hy sinh. Có những đồng đội của ông, hài cốt dù đã được đem đi giám định ADN nhưng do thời gian quá lâu, cũng như sự tàn phá khốc liệt của chiến tranh nên không thể nào cho ra kết quả được.
Chẳng thế mà, lúc nào trong tâm khảm của Đại tá Lường Văn Khoa cũng canh cánh một nỗi niềm trăn trở, như một phần trách nhiệm còn dang dở của Tiểu đoàn Trưởng năm xưa. Hằng năm, ông vẫn cùng các đồng đội đến nghĩa trang thắp hương, thăm những người đồng đội cũ, ôn lại chuyện xưa mà lòng không khỏi xót xa.
Xin khép lại trang hồi ức hào hùng của Đại tá Lường Văn Khoa qua những câu thơ trong đoạn trích Đất nước - Trường ca “Mặt đường khát vọng” của tác giả Nguyễn Khoa Điềm:
“… Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Ðất Nước…”.