Ngành cao su cần thay đổi mạnh mẽ về tư duy, chiến lược kinh doanh
Ảnh minh họa (Internet)
Đó là một phần kết luận trong báo cáo “Chuỗi cung gỗ cao su, thực trạng và thách thức” do Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA), Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFORES), Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP Hồ Chí Minh (HAWA) và Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định (FPA Bình Định), Tổ chức Forest Trends đã phối hợp thực hiện và công bố tại Hà Nội vào ngày 27/9.
Ngành cao su Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng vào thị trường thế giới với cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu thông qua các cam kết từ các hiệp định thương mại tự do được Chính phủ Việt Nam ký kết. Tuy nhiên, hội nhập giúp mở rộng cơ hội phát triển cũng đồng nghĩa gia tăng sức ép cạnh tranh quốc tế, các khó khăn bởi các rào cản thương mại và các rủi ro về thị trường.
Một trong những yêu cầu cơ bản của thị trường trong bối cảnh hội nhập hiện nay là những cá nhân và tổ chức tham gia thị trường bắt buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định có liên quan đến tính bền vững của sản phẩm, về các khía cạnh như trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức này đối với các loại phí, thuế, quy định về môi trường, sử dụng lao động… Các quy định này không chỉ đơn thuần giới hạn trong các chính sách của quốc gia nơi các cá nhân và các tổ chức này hoạt động, mà còn thể hiện trong các điều ước quốc tế mà Chính phủ đã cam kết tham gia thực hiện.
Xuất khẩu là trọng tâm của ngành cao su. Ba nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực của ngành hiện nay là nguyên liệu cao su thiên nhiên (cao su thiên nhiên), sản phẩm cao su và gần đây là gỗ cao su và đồ gỗ được làm từ gỗ cao su. Năm 2017, tổng kim ngạch xuất khẩu của 3 nhóm mặt hàng này đạt trên 6,4 tỷ USD, đóng góp 5,4% vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước năm 2017.
Bên cạnh đó, tiêu thụ nội địa các sản phẩm của ngành lớn và đang tiếp tục mở rộng. Về khía cạnh xã hội, sự phát triển của ngành đã tạo công ăn việc làm cho khoảng năm trăm nghìn lao động tham gia trong các khâu khác nhau của chuỗi cung và trên 260.000 hộ gia đình trực tiếp tham gia khâu sản xuất.
Hiện nay, 81 – 83% sản lượng cao su thiên nhiên của Việt Nam được xuất khẩu. Sự phát triển của ngành cao su cho đến nay chịu tác động rất lớn từ thị trường xuất khẩu, đặc biệt từ Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ 60 – 70% tổng lượng cao su thiên nhiên xuất khẩu của Việt Nam.
Năm 2017, sản lượng cao su đạt 1.094.500 tấn. Với kết quả này, Việt Nam đứng thứ ba trên thế giới về sản xuất cao su thiên nhiên, chiếm khoảng 8,1% tổng sản lượng cao su thế giới, đứng sau Thái Lan (33,2% thị phần thế giới) và Indonesia (27,2%).
Theo đại diện nhóm nghiên cứu, sự đáp ứng với chính sách và thị trường của cao su tiểu điền vẫn còn nhiều hạn chế do khó khăn trong việc tiếp cận thông tin về thị trường, giá cả, cũng như các cơ chế, chính sách quản lý, hỗ trợ của nhà nước đối với loại hình sản xuất này. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng giá cao su thiên nhiên trên thị trường thế giới cho tới năm 2030 khó có thể hồi phục trở như mức năm 2011. Trong bối cảnh sản lượng cao su tiểu điền tại Việt Nam và trên thế giới vẫn có thể tiếp tục gia tăng do diện tích đã mở rộng quá nhiều trước đây, mức giá cao su xuất khẩu khó có thể hồi phục nhanh trong thời gian tới sẽ tiếp tục tạo ra những khó khăn về thị trường mà người trồng cao su đang đối mặt vẫn kéo dài trong thời gian tới.
Đến nay, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ngành cao su vẫn là sản phẩm thô, với lượng cao su thiên nhiên xuất khẩu chiếm trên 80% trong tổng sản lượng xuất khẩu. Trung Quốc là thị trường tiêu thụ cao su thiên nhiên lớn nhất của Việt Nam, hàng năm tiêu thụ trên 65% tổng lượng cao su thiên nhiên của Việt Nam.
Sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm thô là những lợi thế đối với các quốc gia bắt đầu tham gia thị trường. Tuy nhiên, khi thị trường đã phát triển, cơ chế chính sách của các quốc gia liên quan đến đầu tư cởi mở hơn, lao động giá rẻ không còn tồn tại, hoặc không còn là lợi thế của quốc gia, xuất khẩu sản phẩm thô không những không tạo được giá trị gia tăng, không khuyến khích được các doanh nghiệp cải tiến công nghệ và đầu tư lao động tay nghề cao. Điều này sẽ làm mất lợi thế cạnh tranh của ngành trên thị trường thế giới. Nói cách khác, đã đến lúc ngành cao su của Việt Nam, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước đang tham gia khâu sản xuất và chế biến thô hiện nay, cần thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh, thay vì nỗ lực chỉ trú trọng mở rộng xuất khẩu dựa trên sự gia tăng lượng sản phẩm thô xuất khẩu, cần trú trọng tăng hàm lượng khoa học công nghệ trong các sản phẩm xuất khẩu, nhằm nâng cao năng suất, tăng hiệu quả sử dụng vốn, lao động và công nghệ.