Nhiều kết quả khả quan trong công tác quản lý đất đai
Các đại biểu dự cuộc họp |
Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 112/2015/QH13 ngày 15/11/2015 và Nghị quyết số 113/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội, ông Mai Văn Phấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai cho biết, Bộ TN&MT đã kịp thời xây dựng báo cáo Thủ tướng Chính phủ ban hành các Nghị quyết, xây dựng các chính sách để kịp thời triển khai thực hiện hiệu quả hai Nghị quyết này.
Cụ thể, thực hiện Nghị quyết số 112/2015/NQ-QH13, Bộ TN&MT đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tham mưu cho Chính phủ, cũng như trực tiếp ban hành một số văn bản để tổ chức triển khai, như: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 03 Nghị định, 01 Nghị quyết và 01 Chỉ thị.
Bên cạnh đó, Bộ đã ban hành Thông tư số 07/2015/TT-BTNMT ngày 26/02/2015 quy định việc lập phương án sử dụng đất; lập hồ sơ ranh giới sử dụng đất; đo đạc, lập bản đồ địa chính; xác định giá thuê đất; giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với công ty nông, lâm nghiệp.
Ngoài ra, Bộ đã phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ngân hàng Nhà nước ban hành 10 Thông tư, Thông tư liên tịch để triển khai thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến sắp xếp, đổi mới các nông, lâm trường quốc doanh.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà phát biểu tại cuộc họp |
Đến nay, đã tiến hành rà soát 275 công ty, trong đó: giữ lại là 257 công ty (124 công ty nông nghiệp, 133 công ty lâm nghiệp; 97 công ty do Trung ương quản lý, 160 công ty do địa phương quản lý); Diện tích các nông, lâm trường dự kiến bàn giao về địa phương theo Nghị quyết số 112/2015/NQ-QH13 là 465.029 ha, nâng tổng số diện tích bàn giao về địa phương từ trước đến nay đạt 1.086.594 ha (theo Nghị quyết số 28-NQ/TW là 621.565 ha, theo Nghị quyết số 30-NQ/TW là 465.029 ha).
43/45 tỉnh đã cơ bản hoàn thành đã tiến hành đo đạc, cắm mốc ranh giới sử dụng đất đo đạc lập bản đồ địa chính; Đã thẩm định và phê duyệt phương án sử dụng đất cho 117/257 công ty…
Mặc dù đã thực hiện được một số kết quả nêu trên, song hiện vẫn còn bất cập, hạn chế cần phải được nhận diện, để giải quyết như: Hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng đất của các nông lâm trường vẫn còn kém hiệu quả; Tiềm ẩn nguy cơ phát sinh tranh chấp, lấn chiếm đất đai; Nguồn lực đất đai chưa thực sự được phát huy; Vẫn tiềm ẩn nguy cơ rừng và đất rừng tiếp tục bị tàn phá, nguy cơ suy thoái môi trường tăng cao…
Để giải quyết căn cơ, đồng bộ vấn đề này, Bộ TN&MT kiến nghị: Đề nghị Chính phủ bố trí kinh phí để hỗ trợ 100% từ ngân sách Trung ương cho các địa phương bảo đảm việc đo đạc, cắm mốc giới đất đai, vẽ bản đồ, lập hồ sơ địa chính, cấp GCN và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai cho các công ty nông, lâm nghiệp, các ban quản lý rừng, do địa bàn này nằm hầu hết ở các tỉnh có khó khăn về ngân sách, hàng năm ngân sách Trung ương phải hỗ trợ, hơn nữa đối tượng thụ hưởng đa số là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng có vị trí chiến lượng về quốc phòng, an ninh.
Hội đồng Dân tộc báo cáo Quốc hội bố trí ngân sách để hoàn thành các nhiệm vụ theo yêu cầu của Nghị quyết số 30-NQ/TW và Nghị quyết số 112/2015/QH13; đồng thời đề nghị Đoàn đại biểu Quốc hội tăng cường giám sát, kiểm tra, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các vi phạm trong thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai có nguồn gốc nông, lâm trường tại địa phương.
Về triển khai Nghị quyết 113/2015/QH13, ông Mai Văn Phấn cho biết, riêng đối với nội dung bảo đảm đất ở, đất sản xuất cho đồng bào khu vực tái định cư dự án thủy điện, thủy lợi và di dời ra khỏi nơi thường xuyên bị thiên tai; trồng bù diện tích rừng các dự án thủy điện, thủy lợi, việc thu hồi đất để thực hiện các công trình thủy điện, thủy lợi, Bộ đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 64/2014/QĐ-TTg ngày 18/11/2014 quy định chính sách đặc thù về di dân, tái định cư các dự án thủy lợi, thủy điện; Quyết định số 1457/QĐ-TTg ngày 25/10/2019 phê duyệt Đề án: “Rà soát và hoàn thiện các chính sách về di dân, tái định cư dự án thủy lợi, thủy điện”.
Thứ trưởng Lê Minh Ngân phát biểu tại cuộc họp |
Trong thời gian vừa qua, Bộ TN&MT đã tích cực tham mưu, đề xuất với Quốc hội, Chính phủ ban hành các chính sách về đất đai liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó ngoài các quy định bảo đảm cho đồng bào dân tộc thiểu số có quyền và nghĩa vụ bình đẳng như các dân tộc khác, còn có các quy định khác liên quan đến việc sử dụng đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số để phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số; khuyến khích và bảo đảm cho đồng bào dân tộc thiểu số giữ được đất, giữ được bản sắc dân tộc, ổn định cuộc sống và làm giàu trên đất được giao.
Để có thể giải quyết căn bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở của đồng bào DTTS trong bối cảnh quỹ đất hạn chế nhưng nhu cầu sử dụng đất của đồng bào DTTS ngày càng tăng do việc gia tăng dân số, Bộ TN&MT đề xuất cần nghiên cứu xây dựng một chính sách tổng thể, đồng bộ, trong đó chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nâng cao đời sống, đảm bảo an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới, hướng dẫn cách sản xuất hiệu quả, có việc làm và thu nhập từ sản xuất nông, lâm nghiệp, công nghiệp, dịch vụ tại địa phương.
Các đơn vị cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp và cơ chế chính sách như tài chính, đất đai, đầu tư cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ, khuyến nông, chuyển đổi nghề nghiệp và hỗ trợ việc làm...; Riêng lĩnh vực đất đai, ngoài các quy định hiện hành trước mắt cần xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định để tạo quỹ đất sản xuất và hạn chế tình trạng giao dịch đất đai bất hợp pháp đã được Nhà nước hỗ trợ cho đồng bào DTTS.
Các Bộ, ngành Trung ương theo chức năng nhiệm vụ được giao chủ động rà soát thực hiện các chính sách có liên quan đến hỗ trợ đất ở, đất sản xuất cho đồng bào DTTS trên địa bàn cả nước.
Phát biểu tại buổi làm việc, Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Minh Ngân cho rằng, trong quá trình thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Bộ TN&MT đã tích cực tham mưu cho Chính phủ ban hành các văn bản, cơ sở pháp lý để các địa phương thực hiện, trong bối cảnh nông lâm trường chuyển đổi, cổ phần… qua đó khoanh định diện tích các nông lâm trường, rà soát, cấp giấy chứng nhận; cơ bản hoàn thành cơ sở dữ liệu đất nông lâm trường để quản lý, sử dụng hiệu quả.
Thứ trưởng Lê Minh Ngân kiến nghị, về chính sách cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết 112 để hoàn thành xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai nông lâm trường; về tái cơ cấu doanh nghiệp nông lâm trường, do nông lâm trường quản lý nhiều loại đất, nhiều nơi có cả đất rừng phòng hộ, đất tự nhiên, rừng đặc dụng do đó nếu trong quá trình chuyển đổi theo hướng cổ phần nếu không tính đến sẽ khiến chuyển sở hữu đất từ Nhà nước sang sở hữu tư nhân. “Luôn phải giữ Nhà nước nắm cổ phần chi phối, kể cả diện tích đã rà soát đưa vào phương án sử dụng”, Thứ trưởng nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, cần tách diện tích rừng tự nhiên do các doanh nghiệp nông lâm trường về các Ban quản lý rừng của địa phương, tránh việc các doanh nghiệp lợi dụng khai thác.
Đồng quan điểm về nội dung này, Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà cho rằng, trên thực tế hiện nay vấn đề quản lý nông lâm trường, nhất là lâm trường cà phê người dân tham gia góp đất, trang thiết bị máy móc, nếu cổ phần sẽ phát sinh tranh chấp, không công bằng.
Một vấn đề khác được Bộ trưởng Trần Hồng Hà chỉ ra là vấn đề quản lý ở các lâm nông trường còn lỏng lẻo, ranh giới ở nhiều nơi còn chưa phân định dẫn tới xâm lấn, giao đất tùy tiện dẫn tới hiệu quả kinh tế thấp.
Ngoài ra, còn có tình trạng một số nông lâm trường thuộc quản lý của các Bộ, ngành Trung ương dẫn tới công tác quản lý còn gặp khó khăn; diện tích đất trả lại địa phương của các nông lâm trường do tranh chấp, vị trí không phù hợp… Do đó, cần bố trí kinh phí cho việc đo đạc, xây dựng cơ sở dữ liệu nông lâm trường tổng thể để quản lý, giao cho người dân sử dụng cho hiệu quả vừa bảo đảm được vấn đề sinh kế, vừa giữ được rừng, phòng chống thiên tai, đồng thời ứng dụng khoa học công nghệ để tạo ra những sản phẩm bền vững.
Đồng chí Hà Ngọc Chiến, Ủy viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội phát biểu tại cuộc họp |
Kết luận cuộc họp, đồng chí Hà Ngọc Chiến, Ủy viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội đánh giá cao báo cáo của Bộ TN&MT chi tiết, đầy đủ, bám sát đề cương và những nhận định đánh giá rất khách quan và phản ánh đúng thực trạng tình hình hiện nay trong trách nhiệm quản lý nhà nước.
Đồng chí Hà Ngọc Chiến cũng đồng tình với ý kiến của lãnh đạo Tổng cục Quản lý đất đai rằng từ khi có Nghị quyết số 112 đã có sự đột phá trong quản lý đất đai nông lâm trường, trong đó có sự đóng góp lớn của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong việc tham mưu cho Chính phủ các nghị định, các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn.
Để hoàn thiện báo cáo Thẩm tra của Hội đồng dân tộc, đồng chí Hà Ngọc Chiến đề nghị cần bổ sung thêm các ý kiến đóng góp từ các thành viên trong cuộc họp. Trong đó đồng chí Hà Ngọc Chiến đồng tình với ý kiến của Bộ trưởng Trần Hồng Hà là nhấn mạnh việc chỉ ra những nguyên nhân tồn tại, những hạn chế và chỉ rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương trong nhiệm vụ cụ thể được giao.
Đồng chí Hà Ngọc Chiến cũng đề nghị bổ sung, tiếp thu thêm các ý kiến trong cuộc họp để hoàn thiện báo cáo thẩm tra của Hội đồng dân tộc. Trong đó đưa ra các giải pháp tháo gỡ các vấn đề lớn như vấn đề quản lý và sử dụng kém hiệu quả, không phát huy được nguồn lực đất đai từ đất nông lâm trường; phần đất giao cho địa phương sử dụng không đúng mục tiêu ban đầu; xây dựng các giải pháp để có được nguồn lực kinh phí đảm bảo thực hiện được các mục tiêu đã đặt ra trong hai Nghị quyết; xây dựng chính sách tầm quốc gia để giải quyết vấn đề đáp ứng đủ diện tích đất để sản xuất, xây dựng nguồn sinh kế cho đồng bào…
Phát biểu tại cuộc làm việc, Bộ trưởng Trần Hồng Hà trân trọng tiếp thu những ý kiến, kết luận của Đoàn. Đồng thời khẳng định Bộ TN&MT sẽ quyết liệt hơn nữa trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, bảo đảm triển khai có hiệu quả cao, hoàn thành mức cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu các chương trình, nội dung Đoàn làm việc.
* “Đây là bài viết tuyên truyền bảo vệ môi trường của Bộ Thông tin và Truyền thông năm 2020” |