Động lực phát triển kinh tế-xã hội của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam
Kết nối hạ tầng, kinh tế, liên kết thị trường là yếu tố chính giúp một số nhóm dân tộc thiểu số có trình độ phát triển cao hơn.
Bài liên quan
Banking Vietnam 2019 sẽ diễn ra vào ngày 30/5/2019
Năng lượng tái tạo: Bước đi vững chắc đối phó với biến đổi khí hậu
Phạt đến 200 triệu đồng nếu mang thịt lợn trái phép vào Hàn Quốc
Các yếu tố khác bao gồm sự sẵn có của tư liệu sản xuất, khả năng tiếp cận giáo dục và dịch vụ y tế, thiết chế truyền thống và quản trị địa phương, mối quan hệ giới, quan niệm về tộc người và khả năng tiếp cận với sự hỗ trợ từ bên ngoài.
Toàn cảnh buổi công bố báo cáo |
Qua việc chỉ ra một cách có hệ thống các yếu tố chính giúp một số nhóm dân tộc vươn lên phát triển kinh tế trong khi các nhóm khác còn chậm cải thiện, nghiên cứu hy vọng cung cấp thêm thông tin cho việc sửa đổi các chính sách và chương trình dành cho đồng bào dân tộc thiểu số, ước tính chiếm tới 84% số người còn nghèo vào năm 2020.
Bộ trưởng-Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến đánh giá cao sự hỗ trợ kịp thời của Ngân hàngThế giới, Đại sứ quán Australia tại Việt Nam trong việc phối hợp với Ủy ban Dân tộc tổ chức nghiên cứu sâu về những yếu tố tác động trực tiếp tới đời sống kinh tế, xã hội của các nhóm dân tộc thiểu số.
“Những thông tin và kết quả phân tích của báo cáo nghiên cứu này rất có giá trị cho công tác hoạch định và quản lý chính sách dân tộc, đặc biệt là trong thời điểm hiện nay khi Ủy ban Dân tộc đang được Chính phủ giao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng Đề án tổng thể phát triển Kinh tế-Xã hội vùng dân tộc, miền núi và vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn giai đoạn sau 2020”, ông Chiến nói.
Tỷ lệ hộ nghèo của các nhóm dân tộc thiểu số ở Việt Nam là 23% (2016), cao hơn gấp ba lần mức trung bình của cả nước. Nghiên cứu đã chỉ ra con đường thoát nghèo của những nhóm “đi đầu”, trong trường hợp này là dân tộc Mường và Sán Dìu, phụ thuộc một phần vào sự kết nối thuận tiện giữa nơi cư trú tới các cơ sở hạ tầng cơ bản và các cụm trung tâm kinh tế.
Nghiên cứu cũng cho thấy các nhóm dân tộc này có khả năng tiếp cận tốt hơn tới các nguồn lực giúp họ đa dạng hóa các hoạt động sinh kế. Cụ thể hơn, các nhóm dân tộc này tham gia vào các hoạt động sản xuất và mua bán các cây trồng khác ngoài lúa, chủ động tìm kiếm công việc được trả lương ở các nhà máy, và tìm cách tác động tích cực với các bên liên quan có khả năng quyết định phân bổ nguồn lực.
Một nội dung khác của nghiên cứu này là phân tích chính sách hiện tại và đánh giá khả năng ảnh hưởng của nó trong việc thúc đẩy những yếu tố này. Kết quả cho thấy hệ thống hiện tại chú trọng chủ yếu đến kết nối hạ tầng, tiếp cận dịch vụ công và các chương trình tín dụng, trong khi để ngỏ một số khía cạnh khác.Nghiên cứu này gợi ý một vài khuyến nghị chính sách, bao gồm xác định lại trọng tâm của công tác dân tộc trong tương lai và thúc đẩy các chính sách, cơ chế hiện có.
Ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam khẳng định, từ nghiên cứu này, chúng tôi thấy có rất nhiều cơ hội để thúc đẩy hơn nữa chương trình nghị sự tăng tính hòa nhập xã hội bằng cách chủ động áp dụng cách tiếp cận mới đối với sự phát triển của các vùng dân tộc thiểu số. Việt Nam hoàn toàn có thể tin tưởng vào sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới để lồng ghép chương trình này, qua các dự án đầu tư vào giao thông và cơ sở hạ tầng nông thôn và miền núi, đa dạng hóa nông nghiệp cũng như hỗ trợ các Chương trình Mục tiêu Quốc gia.
Nghiên cứu được thực hiện trong khuôn khổ chương trình Đối tác chiến lược Australia – Nhóm Ngân hàng Thế giới giai đoạn 2 (ABP2).