Tag
20 năm thực hiện Chương trình 135: Thành tựu và những vấn đề đặt ra

Bài 4: Lấy thôn bản và người dân làm trung tâm

Nông thôn mới 07/10/2019 09:55
aa
Tại Hội thảo quốc gia “Thực trạng chính sách dân tộc, định hướng xây dựng chính sách giai đoạn 2021 -2030, ông Ksor Phước - Nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, nguyên Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội đặt vấn đề cần xác định Chương trình 135 là cuộc cách mạng xã hội ở vùng đặc biệt khó khăn (ĐBKK).

Bài 4: Lấy thôn bản và người dân làm trung tâm

Vùng đặc biệt khó khăn cần tiếp tục được quan tâm đầu tư để phát triển bền vững

Bài liên quan

Bài 1: Đổi mới tư duy và những con số ấn tượng

Bài 2: Những bài học kinh nghiệm quý

Bài 3: Niềm tin từ những mô hình

Công tác xây dựng nông thôn mới cần đi vào chiều sâu

Cần một chương trình mục tiêu quốc gia phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số

Hà Nội đẩy mạnh hỗ trợ người dân phát triển nông nghiệp sạch

Các cấp ủy đảng, chính quyền phải có quyết tâm xóa nghèo cho đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) như xóa nạn mù chữ năm 1945. Thời điểm đó, khi nước nhà vừa giành được độc lập, 90% dân số mù chữ. Chính sách dân tộc nói chung, Chương trình 135 nói riêng trong những năm tới cần đột phá theo hướng lấy thôn bản và người dân làm trung tâm.

TS. Bế Trường Thành - Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc khẳng định, 20 năm trước, sự đổi mới tư duy của Đảng đã khai sinh ra Chương trình 135. Việc lựa chọn các xã ĐBKK, vùng nghèo nhất nước là nơi đột phá để tập trung đầu tư hỗ trợ theo chương trình mục tiêu là bằng chứng sinh động nhất cho sự đổi mới cả về nhận thức và tư duy trong xây dựng chính sách dân tộc. Thực hiện chính sách bằng chương trình mục tiêu quốc gia nhằm tập trung nguồn lực đầu tư, hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm với lộ trình hợp lý, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, cào bằng, bình quân mà có lúc, có nơi tưởng như vậy là công bằng, bình đẳng; khắc phục những hạn chế của việc “phối hợp, lồng ghép” các chương trình, dự án khác nhau trên cùng một địa bàn” khá phổ biến từ trước đến nay; thực hiện yêu cầu tích hợp các chính sách có cùng mục tiêu vào một chính sách chung để tránh chồng chéo trong quản lý, hướng dẫn triển khai thực hiện.

Những kết quả rất đáng kể mà Chương trình 135 đạt được sau chặng đường 20 năm đã đóng góp to lớn cho sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, phát triển hạ tầng, xây dựng đội ngũ cán bộ ở vùng ĐBKK, hạn chế gia tăng khoảng cách giàu - nghèo ở vùng DTTS, miền núi với các vùng khác trong cả nước.

Ông Ksor Phước - Nguyên Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội trăn trở, bối cảnh đất nước nói chung, vùng DTTS, vùng ĐBKK đang thay đổi rất nhanh khi bước vào cuộc cách mạng 4.0. Độ mở nền kinh tế đất nước với khu vực và thế giới ngày càng lớn thì nguy cơ khoảng cách các chỉ số phát triển cơ bản của đa số các DTTS so với mức trung bình của nông dân và nông thôn cả nước ngày càng gia tăng. Hiện nay, tỷ lệ nghèo trong đồng bào DTTS đã giảm nhưng vẫn còn cao. Thu nhập của hộ đã tăng lên khoảng 20% sau 5 năm nhưng vẫn thấp hơn nhiều mức trung bình của cả nước (50%). Chênh lệch thu nhập giữa các hộ gia đình ở các xã thuộc Chương trình 135 có xu hướng tăng và thấp hơn mức sống trung bình của quốc gia. Những hộ nghèo hơn có mức tăng thu nhập thấp hơn so với hộ khá và khoảng cách giữa các hộ nghèo và không nghèo ở các xã 135 ngày càng nới rộng.

Trong định hướng xây dựng chính sách dân tộc giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030, Ủy ban Dân tộc đặt mục tiêu phấn đấu rất quyết liệt. Đến năm 2025: giảm ít nhất 40% số xã ĐBKK, 60% các thôn, bản ĐBKK, giảm ít nhất 25 huyện nghèo (theo Nghị quyết 30a). Đến năm 2030, tức là sau 32 năm thực hiện Chương trình 135, không còn xã ĐBKK, giảm ít nhất 75% số thôn, bản ĐBKK và không còn huyện nghèo nhất nước theo tiêu chí hiện nay.

Nếu không có quyết tâm đạt được những mục tiêu này, ông Ksor Phước cảnh báo, các thôn bản ĐBKK sẽ là “cái rốn” cuối cùng của nghèo nàn, lạc hậu trong vùng DTTS. Các chỉ số phát triển cơ bản của người dân vùng ĐBKK so với các vùng nông thôn khác của quốc gia ngày càng gia tăng thêm; sẽ có một số dân tộc và vùng dân tộc, miền núi đứng trước tình huống “tự nhiên” “bị bỏ lại ngày càng xa phía sau” và nước ta lại phải tiếp tục cuộc “kháng chiến trường kỳ” xóa đói giảm nghèo chưa biết đến bao giờ mới kết thúc ở một số vùng DTTS.

Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn - đại diện tổ chức CARE, một đối tác phát triển của Ủy ban Dân tộc nhận xét, thách thức lớn hiện nay là tỷ lệ nghèo ở vùng DTTS còn cao (gấp 4 lần so với bình quân chung của cả nước). Một bộ phận người dân vẫn thiếu đói giáp hạt. Nghèo ngày càng tập trung trong các nhóm DTTS. Nếu như năm 2010, gần 50% người nghèo cả nước là người DTTS thì đến năm 2016, tỷ lệ này là 70% theo chuẩn nghèo chi tiêu của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới trong khi người DTTS chiếm chưa tới 15% dân số cả nước. Theo xu hướng này, trong thời gian tới, tỷ lệ người DTTS trong tổng số người nghèo trên cả nước sẽ còn cao hơn nữa.

Nếu coi vùng DTTS là vùng “lõi nghèo” của cả nước thì vùng ĐBKK là “nhân”, là “lõi” của “vùng lõi”. Thực tế, với mỗi thôn bản, với các nhóm dân tộc khác nhau ở các vùng khác nhau và ngay cả trong một vùng, thậm chí một huyện, một xã, một thôn bản thì sự đa dạng của tình trạng đói nghèo cũng khác nhau. Mặt khác, vùng DTTS nói chung, vùng ĐBKK nói riêng đang phải đối diện với những rủi ro ngày càng phức tạp về thiên tai, biến đổi khí hậu, thị trường, việc làm, tín dụng, rủi ro do các hoạt động xây dựng và vận hành nhà máy thủy điện, khai thác khoáng sản … ảnh hưởng bất lợi đến những nỗ lực giảm nghèo ở từng cộng đồng thôn bản DTTS. Ở những thôn bản khó khăn nhất thì các hộ nghèo cũng chính là cộng đồng khó thoát nghèo nhất, là nhóm nghèo dai dẳng.

Theo dự báo của nhiều chuyên gia, nếu không đổi mới mạnh mẽ, những điểm mạnh sau 20 năm thực hiện Chương trình 135 có thể biến thành điểm yếu. Chương trình 135 các giai đoạn trước đã hoàn thành sứ mệnh là tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh, huyện, xã ĐBKK. Tuy nhiên, cũng chính từ cách tiếp cận quá nhấn mạnh vào phát triển cơ sở hạ tầng khiến ở một góc độ nào đó làm cho những can thiệp này không khác nhiều so với những khoản đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Các giai đoạn trước, 70% tổng kinh phí thực hiện Chương trình 135 được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho xã ĐBKK, xã biên giới, xã an toàn khu, thôn bản ĐBKK nên cấp triển khai thực hiện phải là cấp hành chính, tức là thấp nhất cũng phải là cấp xã, dẫn đến vai trò của cộng đồng ở cấp thôn, bản không được thể hiện (do thôn, bản không phải là cấp hành chính). Vì vậy, nhiều trường hợp lựa chọn, quản lý và sử dụng công trình hạ tầng không gắn với nhu cầu của đồng bào DTTS, dẫn đến tình trạng làm xong bỏ hoang hoặc không sử dụng hết công suất.

Thường xuyên đổi mới nguyên tắc thực hiện phù hợp với tình hình thực tiễn là một trong những bài học lớn nhất trong thực hiện Chương trình 135. Với những thử thách mới đặt ra từ thực tiễn và yêu cầu cần khắc phục hạn chế của các giai đoạn trước, đã đến lúc nội dung chính sách áp dụng cho các vùng trên cả nước không còn hiệu quả và phù hợp. Trong các giai đoạn tiếp theo, Chương trình 135 nói riêng, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo nói chung cần tập trung cho nhóm nghèo nhất, dễ bị tổn thương nhất. Các chính sách, chương trình giảm nghèo ở vùng DTTS, vùng ĐBKK chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi công nhận và thúc đẩy các quyền bình đẳng đã hiến định cho người DTTS, đảm bảo cộng đồng và người dân đóng vai trò chủ thể tích cực, là đối tượng thực hiện chính sách, chứ không phải là đối tượng hưởng lợi, bị động từ các hỗ trợ bên ngoài.

Tinh thần đột phá của 20 năm trước, tập trung vào nơi nghèo nhất, khó khăn nhất cần được tiếp tục thực hiện. Song mũi đột phá phải thay đổi, đó là lấy thôn bản và người dân làm điểm nhấn trong các chương trình giảm nghèo và phát triển bền vững ở vùng DTTS. Chính sách nên theo hướng mở để địa phương, cộng đồng tự quyết định đầu tư cái gì phù hợp nhất với từng dân tộc, từng thôn bản. Ưu tiên hỗ trợ tập trung cho các thôn bản khó khăn nhất, dễ tổn thương nhất theo hướng giảm phạm vi địa bàn để tăng nguồn lực hỗ trợ cho mỗi thôn bản, nhất là nguồn lực phát triển sinh kế, ứng phó với rủi ro, nguồn lực hỗ trợ nâng cao năng lực cộng đồng theo cách “vừa học vừa làm”, gắn với từng công trình, dự án, tổ nhóm cụ thể. Đồng bào DTTS ở các thôn bản có lợi thế lớn về sự gắn kết cộng đồng, tự quản thông qua các thiết chế cộng đồng để quản lý và sử dụng các nguồn lực tự nhiên theo tập quán truyền thống, tri thức địa phương, duy trì các thực hành văn hóa tâm linh lành mạnh, hợp tác cùng nhau, dựa vào nhau để làm ăn và chống đỡ rủi ro, thực hiện an sinh xã hội dựa vào cộng đồng trên cơ sở đảm bảo sự quản lý chung của Nhà nước.

Một câu hỏi được không ít những người làm chính sách dân tộc trăn trở đặt ra đó là tại sao trên cùng một địa bàn, đồng bào Kinh từ nơi khác đến định cư sau 5 – 10 năm là có sự phát triển bứt phá, vượt xa đồng bào DTTS tại chỗ. Câu trả lời chính là nhân tố nội lực của các DTTS địa phương còn nhiều hạn chế nên sự hấp thụ, chuyển hóa các nguồn lực hỗ trợ từ bên ngoài đạt thấp. Bên cạnh đó là sự mặc nhiên “dán nhãn” cho đồng bào DTTS nghèo là “trông chờ, ỷ lại” vào Nhà nước, “thiếu ý chí” vươn lên. Trên thực tế thực tế, đó là hậu quả của chính sách “cho không” trực tiếp tới người nghèo, với mục đích đảm bảo quyền lợi cho các DTTS, trong khi lẽ ra chính sách cần phải tạo cơ hội, đảm bảo quyền quyền bình đẳng để các cộng đồng DTTS tự làm chủ quá trình vươn lên của mình. Chính sách chưa được thiết kế theo hướng gắn với các điều kiện về nỗ lực tự thân và kết quả cải thiện đời sống đang tạo ra tâm lý muốn nghèo và so bì, tỵ nạnh trong một bộ phận người dân. Đây là hiệu ứng không mong đợi và cần phải được khắc phục bằng sửa đổi chính sách.

Nhà nước cần thực hiện cơ chế hỗ trợ tài chính trọn gói, giao cho thôn bản tự quản dưới dạng “Quỹ phát triển cộng đồng” dựa trên 3 trụ cột:

Thứ nhất: truyền thông nâng cao năng lực đi trước một bước. Người dân cần được tuyên truyền, vận động để hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình, hiểu rõ tiềm năng, thế mạnh của cộng đồng.

Thứ hai: Phát huy tiềm năng, thế mạnh, nội lực cộng đồng. Cần trao quyền cho cộng đồng thực hiện các tiểu dự án. Vốn hỗ trợ của Nhà nước đóng vai trò “vốn mồi”, chất xúc tác nhằm phát huy nội lực cộng đồng.

Thứ ba: xây dựng, củng cố các tổ chức nông dân, các thiết chế cộng đồng nhằm tăng cường hành động tập thể, phát huy tinh thần hợp tác, chia sẻ, phát huy cơ chế tiên phong - lan tỏa trong cộng đồng.

Ưu tiên cho nhóm yếu thế nhất, dễ bị tổn thương nhất là rất cần thiết nhưng cũng không nên quên sự kết nối với các nhóm không nghèo và có lợi thế ngay trong cùng cộng đồng thôn bản, vì như thế sẽ làm giảm sự gắn kết cộng đồng và làm mất đi vai trò tích cực của cơ chế tiên phong, lan tỏa trong các thôn bản DTTS. Đổi mới chính sách chính là thúc đẩy sự liên kết ngay trong cộng đồng, phát huy sức mạnh nội tại của cộng đồng, tạo điều kiện phát huy sự chủ động tích cực của cộng đồng, nhất là trong việc tạo dựng những mô hình sinh kế riêng, phù hợp. Có sinh kế thì hộ gia đình mới thoát nghèo. Gia đình thoát nghèo thì thôn bản thoát nghèo… Hành trình đó sẽ đi từ vi mô là mỗi gia đình hạt nhân đến tầm vĩ mô là cả quốc gia.

Việt Nam đã cam kết thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hợp quốc, với thông điệp cốt lõi: “không để ai bị bỏ lại phía sau”. 20 năm trước, Chương trình 135 ra đời là kết quả của sự đổi mới tư duy của Đảng, Nhà nước ta, chuyển từ cách thức đầu tư “dễ làm trước, khó làm sau” sang đầu tư, hỗ trợ thẳng tới địa bàn nghèo nhất, khó khăn nhất. Sứ mệnh ngày nay và các giai đoạn tiếp theo của Chương trình 135 cũng như Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững là phải giúp các thôn bản, các hộ dân khó khăn nhất thoát nghèo bền vững.

Giải pháp thực hiện sứ mệnh đó hiệu quả nhất là phải phát hiện, nâng đỡ cho những mô hình tạo sinh kế bền vững cho người dân tăng thu nhập, đồng thời phục vụ mục tiêu tái cơ cấu sản xuất của các địa bàn, của các hộ ĐBKK. Hành trình đó còn dài nhưng có nhiều triển vọng, là quả ngọt của sự không ngừng hoàn thiện cách thức đầu tư, nguyên tắc quản lý Chương trình 135 và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững để phù hợp với thực tiễn; sự quan tâm vào cuộc của các tỉnh, thành phố vùng DTTS, miền núi và hơn hết là sự chủ động, tự giác tìm kiếm, đề xuất các mô hình phát triển sản xuất của mỗi người dân ở cộng đồng thôn bản.

Đọc thêm

Sóc Trăng: Phát triển nuôi tôm nước lợ hướng bền vững Nông thôn mới

Sóc Trăng: Phát triển nuôi tôm nước lợ hướng bền vững

TTTĐ - Nuôi tôm nước lợ trên cả nước, tỉnh Sóc Trăng đứng thứ tư về diện tích nhưng đứng đầu tỷ lệ thâm canh và bán thâm canh nên có sản lượng đứng thứ ba. Ngày 28/8/2024, Đề án Phát triển nuôi tôm nước lợ tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2023-2025 tầm nhìn đến năm 2030 được triển khai với hướng bền vững, sản xuất sạch,tăng năng suất và chất lượng để tăng kim ngạch xuất khẩu.
Sinh vật cảnh góp phần phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững Nông thôn mới

Sinh vật cảnh góp phần phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững

TTTĐ - Tối 14/9, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội phối hợp Hội Sinh vật cảnh thành phố khai mạc Festival Sinh vật cảnh lần thứ nhất năm 2024 và tổ chức quyên góp, đấu giá ủng hộ Quỹ Phòng, chống lụt bão.
Nguyên nhân đàn bò sữa chết bất thường ở Lâm Đồng Nông thôn mới

Nguyên nhân đàn bò sữa chết bất thường ở Lâm Đồng

TTTĐ - Nguyên nhân chính gây bệnh tiêu chảy ở đàn bò sữa trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng do nhiễm Pestivirus (BVDV type 2), sau khi tiêm vắc xin phòng bệnh viêm da nổi cục (VDNC) của Công ty CP Thuốc thú y Trung ương.
Tìm giải pháp để giảm phát thải khí nhà kính trong chăn nuôi Nông thôn mới

Tìm giải pháp để giảm phát thải khí nhà kính trong chăn nuôi

TTTĐ - Tại Diễn đàn: “Giảm phát thải khí nhà kính trong chăn nuôi: Thách thức và Cơ hội” các nhà khoa học, nhà quản lý, Hội Chăn nuôi và các đơn vị doanh nghiệp trong lĩnh vực môi trường, chăn nuôi và công nghệ đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm giảm phát thải khí nhà kính để ngành chăn nuôi phát triển theo hướng bền vững và bảo vệ môi trường.
Tổ chức đấu giá sinh vật cảnh để ủng hộ đồng bào vùng lũ Nông thôn mới

Tổ chức đấu giá sinh vật cảnh để ủng hộ đồng bào vùng lũ

TTTĐ - Tại lễ khai mạc Festival Sinh vật cảnh Hà Nội lần thứ I năm 2024 dự kiến tổ chức tối 14/9, Ban tổ chức sẽ tiến hành đấu giá sinh vật cảnh để gây quỹ ủng hộ đồng bào bị ảnh hưởng lụt bão.
Duy trì lực lượng ứng cứu nhanh, sẵn sàng cơ động khi cần thiết Nông thôn mới

Duy trì lực lượng ứng cứu nhanh, sẵn sàng cơ động khi cần thiết

TTTĐ - Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội yêu cầu các đơn vị, lực lượng tăng cường công tác kiểm tra hệ thống đê điều, kịp thời phát hiện và xử lý các sự cố về đê điều ngay từ giờ đầu; chuẩn bị đầy đủ lực lượng, vật tư, phương tiện sẵn sàng ứng phó đối với những tình huống xấu có thể xảy ra.
Hội Nông dân Việt Nam tặng quà tại "rốn lũ" xã Nam Phương Tiến Nông thôn mới

Hội Nông dân Việt Nam tặng quà tại "rốn lũ" xã Nam Phương Tiến

TTTĐ - Ngày 11/9, Phó Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam Bùi Thị Thơm tới thăm, tặng quà, hỗ trợ người dân xã Nam Phương Tiến, huyện Chương Mỹ bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3.
Không để thiếu hụt rau xanh, hàng hóa phục vụ người dân Thủ đô Nông thôn mới

Không để thiếu hụt rau xanh, hàng hóa phục vụ người dân Thủ đô

TTTĐ - Ngay sau khi cơn bão số 3 (YAGI) đi qua, trên địa bàn thành phố Hà Nội và các tỉnh phía Bắc liên tục xảy ra mưa lớn, nước lũ tại các sông cũng dâng cao khiến cuộc sống của nhiều người dân bị ảnh hưởng. Song, với quyết tâm không để người dân nào bị đói, bị rét, không để ai bị bỏ lại phía sau, thành phố Hà Nội đã chỉ đạo các đơn vị kịp thời triển khai biện pháp bảo đảm cung cầu hàng hóa, báo cáo ngay khi xảy ra tình trạng thiếu hàng, tăng giá đột biến.
Bài 3: Sau bão lũ, ngành Nông nghiệp cần "liều thuốc đặc biệt" Nông thôn mới

Bài 3: Sau bão lũ, ngành Nông nghiệp cần "liều thuốc đặc biệt"

TTTĐ - Các chuyên gia cho rằng, sau bão lũ nặng nề, để phục hồi sản xuất có hiệu quả, ngành Nông nghiệp Thủ đô cần xây dựng chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển cây trồng vụ đông. Trong các chính sách hỗ trợ, ngành cần chú trọng giống, thuốc bảo vệ thực vật, chi phí làm đất theo hướng sản xuất hàng hoá.
Bước đột phá trong mô hình 1 triệu ha lúa chất lượng cao Nhịp sống phương Nam

Bước đột phá trong mô hình 1 triệu ha lúa chất lượng cao

TTTĐ - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa phê duyệt Kế hoạch thực hiện các mô hình thí điểm trong Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp” tại Đồng bằng sông Cửu Long, nhằm hướng tới tăng trưởng xanh đến năm 2030. Trong đó, 7 mô hình thí điểm đã được triển khai tại các tỉnh Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang và Đồng Tháp.
Xem thêm