Tag
20 năm thực hiện Chương trình 135: Thành tựu và những vấn đề đặt ra

Bài 1: Đổi mới tư duy và những con số ấn tượng

Nông thôn mới 04/10/2019 10:41
aa
TTTĐ - Hai mươi năm trước, ngày 31/7/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 135/QĐ-Ttg phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, miền núi và vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135).

Bài 1: Đổi mới tư duy và những con số ấn tượng

Chương trình 135 góp phần thay đổi diện mạo xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi

Bài liên quan

Công tác xây dựng nông thôn mới cần đi vào chiều sâu

Hà Nội đẩy mạnh hỗ trợ người dân phát triển nông nghiệp sạch

Dấu ấn quan trọng trong hoàn thiện hạ tầng thương mại và điện nông thôn

Cơ sở sản xuất, kinh doanh được vay tối đa 2 tỷ đồng/dự án

Thu tiền tỷ mỗi năm nhờ trồng hoa công nghệ cao

Công tác xây dựng nông thôn mới có nhiều khởi sắc

Đây là một chương trình đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, có ảnh hưởng không những đến phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống đồng bào ở các vùng đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa mà còn góp phần giải quyết các vấn đề an ninh, quốc phòng ở những địa bàn xung yếu của đất nước.

Sau 20 năm, với những thành tựu hết sức to lớn, Chương trình 135 đã trở thành “thương hiệu” và được cả hệ thống chính trị, các tổ chức quốc tế cùng nhân dân cả nước ghi nhận là lực lượng vật chất to lớn, góp phần làm thay đổi diện mạo địa bàn đặc biệt khó khăn của nước ta.

Nhưng cũng sau 20 năm, Chương trình 135 với cách làm chủ yếu là đầu tư cơ sở hạ tầng đứng trước yêu cầu cần phải thay đổi cách thức đầu tư theo hướng: giảm phạm vi địa bàn, lấy thôn bản làm trung tâm, lấy mô hình làm hạt nhân để tập trung hỗ trợ mạnh hơn nhằm giải quyết hiệu quả bài toán về sự đa dạng tình trạng nghèo ở vùng dân tộc thiểu số. Hiện nay, “lõi nghèo” của đất nước tập trung chủ yếu ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng đặc biệt khó khăn tiếp tục là vùng “lõi” của “lõi nghèo”.

Chương trình 135 được “khai sinh” là kết quả của sự chuyển đổi nhận thức trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Qua 20 năm thực hiện, đến nay, trong hệ thống chính sách dân tộc ở nước ta, Chương trình 135 được xác định là “xương sống”.

Từ đổi mới tư duy trong đầu tư phát triển ở vùng đặc biệt khó khăn…

Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 22/NQ/TW ngày 27/11/1989 về “Một số chủ trương, chính sách lướn phát triển kinh tế - xã hội miền núi”, để tham mưu, đề xuất và xây dựng chính sách dân tộc phù hợp với đặc điểm, đặc thù của mỗi vùng, miền, đối tượng cụ thể, Việt Nam tiến hành phân định địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo điều kiện địa lý tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế - xã hội.

Với cách phân chia này, vùng dân tộc thiểu số và miền núi được chia thành 3 khu vực, dựa trên 5 tiêu chí cơ bản: đời sống, cơ sở hạ tầng, các yếu tố xã hội, điều kiện sản xuất, điều kiện tự nhiên địa bàn cư trú. Theo cách phân định này, khu vực III được xác định là địa bàn đặc biệt khó khăn. Từ việc phân định này đã hình thành và triển khai thực hiện Chương trình 135.

Theo TS. Bế Trường Thành - nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, lựa chọn các xã đặc biệt khó khăn, vùng nghèo nhất nước để tập trung đầu tư là sự đổi mới trong nhận thức, phương pháp xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Thay vì lộ trình “dễ làm trước, tiến dần đến vùng khó khăn hơn” như cách làm của các chương trình, dự án trước đó, đến Chương trình 135 đã đổi lại, chọn những nơi khó khăn nhất, nghèo nhất để tập trung ưu tiên đầu tư hỗ trợ.

Từ năm 1999 - 2005, Chương trình 135 đầu tư trên địa bàn 2.410 xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu với 5 nội dung trọng tâm: xây dựng cơ sở hạ tầng, trung tâm cụm xã, đào tạo cán bộ, quy hoạch dân cư và phát triển sản xuất.

Giai đoạn từ 2006 - 2010, Chương trình 135 tiếp tục được thực hiện tại các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số, miền núi với 4 nhiệm vụ chính: hỗ trợ phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản xuất cho đồng bào dân tộc; phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, nâng cao trình độ quản lý hành chính và kinh tế, đào tạo nâng cao năng lực cộng đồng; hỗ trợ các dịch vụ cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật. Giai đoạn này, Chương trình 135 được thực hiện trên địa bàn 1.958 xã; 3.274 thôn bản đặc biệt khó khăn trong cả nước.

Từ 2011 - 2015, Chương trình 135 rút xuống còn 2 nhiệm vụ trọng tâm là hỗ trợ cơ sở hạ tầng và hỗ trợ phát triển sản xuất trên địa bàn 2.331 xã, 2.932 thôn bản đặc biệt khó khăn.

Trong các năm từ 2016 - 2018, Chương trình 135 là dự án thành phần của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, triển khai trên địa bàn 2.139 xã và 3.973 thôn bản khó khăn, với 3 nội dung: hỗ trợ phát triển sản xuất; hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng; nâng cao năng lực cho cộng đồng và cán bộ cơ sở.

Phân tích cơ chế đầu tư của Chương trình 135 qua các mốc thời gian như trên để thấy rõ, quá trình đổi mới tư duy của Đảng, Nhà nước không chỉ ở sự “khai sinh” ra Chương trình 135, mà còn thể hiện trong nội dung nhiệm vụ trọng tâm của từng giai đoạn có sự khác biệt.

Giai đoạn đầu, Chương trình tập trung ưu tiên cho đầu tư cơ sở hạ tầng tại vùng đặc biệt khó khăn, với phương châm mọi người dân, mọi dân tộc thiểu số sinh sống trong vùng đó đều được thụ hưởng chính sách. Tuy nhiên, chính sách theo vùng như vậy cũng có những hạn chế đối với địa bàn giáp ranh có điều kiện tương đồng nhưng không thuộc diện thụ hưởng do giới hạn địa giới hành chính.

Ở các giai đoạn sau, Chương trình 135 đã đầu tư, hỗ trợ xuống tận đơn vị thôn bản chính là để tránh hiện tượng “so bì, thắc mắc” của đồng bào, thậm chí cả của cấp chính quyền địa phương mà nếu không giải quyết thỏa đáng rất dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước.

Triển khai vào thời điểm Việt Nam vừa tiến hành mở cửa và thuộc nhóm các nước nghèo của thế giới, Chương trình 135 nhận được sự quan tâm lớn của cộng đồng quốc tế. Thực hiện cam kết với các nhà tài trợ quốc tế về điều kiện giải ngân, Chương trình 135 qua các giai đoạn được thực hiện theo cơ chế đặc thù, đơn giản, phù hợp với trình độ quản lý và tổ chức thực hiện của các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn. Người dân được tham gia từ khi xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện, đến giám sát và bàn giao công trình. Quá trình thực hiện đảm bảo tính dân chủ, huy động được sự tham gia đóng góp của cộng đồng, góp phần tạo nên việc làm, tăng thu nhập cho người dân thuộc các địa bàn thụ hưởng chính sách.

…Và kết quả tất yếu là những con số ấn tượng

Kết quả của sự đổi mới tư duy trong đầu tư phát triển ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi là những con số ấn tượng mà Chương trình 135 đạt được. Từ năm 1999 - 2018, ngân sách nhà nước đã đầu tư trên 50.364 tỷ đồng, huy động xã hội hóa 1.046 tỷ đồng và huy động từ các nhà tài trợ quốc tế tổng số kinh phí tương đương trên 7.242 tỷ đồng để thực hiện Chương trình 135.

Ông Võ Văn Bảy - Vụ trưởng, Chánh Văn phòng Điều phối Chương trình 135, Ủy ban Dân tộc nhận xét: từ xuất phát điểm hầu hết các xã đặc biệt khó khăn là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng cao hẻo lánh, biên giới, cơ sở hạ tầng thiết yếu rất thấp kém, hoặc chưa có; các yếu tố xã hội chưa đạt mức tối thiểu: dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ, thất học trên 60%, nhiều bệnh tật, tập tục lạc hậu; điều kiện sản xuất rất khó khăn, sản xuất mang tính tự nhiên, đồng bào duy trì phương thức sản xuất phát rừng làm nương rẫy, du canh, du cư, số hộ đói nghèo trên 60%... Đến nay, hầu hết các xã đặc biệt khó khăn đã có đầy đủ các công trình hạ tầng. Tuy quy mô công trình còn nhỏ, số lượng còn hạn chế so với nhu cầu nhưng cũng đã tạo ra sự thay đổi to lớn về điều kiện kinh tế - xã hội trên địa bàn. Theo thống kê sơ bộ, 100% các xã đã có đường ô tô đến trung tâm; 99% trung tâm xã và 80% thôn bản có điện; 65% xã có hệ thống thủy lợi nhỏ đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống; 88% thôn có đường cho xe cơ giới, 42% thôn có đường giao thông đạt chuẩn; trên 50% trạm y tế xã đạt chuẩn. Đặc biệt, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo, nhất là hộ đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn giảm nhanh theo từng giai đoạn…

Qua đầu tư cơ sở hạ tầng, Chương trình 135 đã góp phần xóa bỏ phần lớn trường, lớp học tạm bợ, tạo điều kiện huy động hầu hết trẻ em trong độ tuổi ở các xã đặc biệt khó khăn đến trường, thúc đẩy hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở ở các xã vùng sâu, vùng xa. Các công trình thủy lợi đã góp phần tăng năng lực tưới tiêu, giúp đồng bào có đất canh tác, trồng cấy các loại cây công, nông nghiệp, cây ăn quả, tăng sản lượng lương thực và chuyển đổi sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa…

Chương trình 135 đã làm thay đổi nhận thức của một bộ phận lớn đồng bào các dân tộc thiểu số; giúp nhiều hộ thoát nghèo, nhiều hộ có thu nhập cao nhờ được phổ biến kiến thức và tham quan, học tập các mô hình sản xuất, làm ăn có hiệu quả; được hỗ trợ khuyến nông, khuyến lâm kết hợp với hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi có giá trị.

Năng lực cộng đồng và cán bộ cơ sở từng bước được nâng lên. Đội ngũ cán bộ cơ sở được đào tạo, tập huấn thường xuyên, đáp ứng yêu cầu quản lý của các hợp phần trong Chương trình.

Những kết quả trên đã làm thay đổi nhanh, cơ bản diện mạo nông thôn vùng dân tộc thiểu số, miền núi, góp phần hạn chế sự “dãn ra” khoảng cách chênh lệch, phân hóa giàu - nghèo mà cực nghèo chủ yếu rơi vào đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn. Chương trình 135 thực sự trở thành lực lượng vật chất to lớn, góp phần thúc đẩy nhanh công tác xóa đói giảm nghèo ở các xã, thôn bản vùng III.

Chương trình được cộng đồng quốc tế, nhất là nhà tài trợ ngân sách quan tâm, đánh giá là chương trình giảm nghèo toàn diện, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, ít thất thoát, được nhân dân cả nước đồng thuận, được nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế đến tham quan, học tập và chia sẻ kinh nghiệm.

(Còn nữa)

Đọc thêm

Sóc Trăng: Phát triển nuôi tôm nước lợ hướng bền vững Nông thôn mới

Sóc Trăng: Phát triển nuôi tôm nước lợ hướng bền vững

TTTĐ - Nuôi tôm nước lợ trên cả nước, tỉnh Sóc Trăng đứng thứ tư về diện tích nhưng đứng đầu tỷ lệ thâm canh và bán thâm canh nên có sản lượng đứng thứ ba. Ngày 28/8/2024, Đề án Phát triển nuôi tôm nước lợ tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2023-2025 tầm nhìn đến năm 2030 được triển khai với hướng bền vững, sản xuất sạch,tăng năng suất và chất lượng để tăng kim ngạch xuất khẩu.
Sinh vật cảnh góp phần phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững Nông thôn mới

Sinh vật cảnh góp phần phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững

TTTĐ - Tối 14/9, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội phối hợp Hội Sinh vật cảnh thành phố khai mạc Festival Sinh vật cảnh lần thứ nhất năm 2024 và tổ chức quyên góp, đấu giá ủng hộ Quỹ Phòng, chống lụt bão.
Nguyên nhân đàn bò sữa chết bất thường ở Lâm Đồng Nông thôn mới

Nguyên nhân đàn bò sữa chết bất thường ở Lâm Đồng

TTTĐ - Nguyên nhân chính gây bệnh tiêu chảy ở đàn bò sữa trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng do nhiễm Pestivirus (BVDV type 2), sau khi tiêm vắc xin phòng bệnh viêm da nổi cục (VDNC) của Công ty CP Thuốc thú y Trung ương.
Tìm giải pháp để giảm phát thải khí nhà kính trong chăn nuôi Nông thôn mới

Tìm giải pháp để giảm phát thải khí nhà kính trong chăn nuôi

TTTĐ - Tại Diễn đàn: “Giảm phát thải khí nhà kính trong chăn nuôi: Thách thức và Cơ hội” các nhà khoa học, nhà quản lý, Hội Chăn nuôi và các đơn vị doanh nghiệp trong lĩnh vực môi trường, chăn nuôi và công nghệ đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm giảm phát thải khí nhà kính để ngành chăn nuôi phát triển theo hướng bền vững và bảo vệ môi trường.
Tổ chức đấu giá sinh vật cảnh để ủng hộ đồng bào vùng lũ Nông thôn mới

Tổ chức đấu giá sinh vật cảnh để ủng hộ đồng bào vùng lũ

TTTĐ - Tại lễ khai mạc Festival Sinh vật cảnh Hà Nội lần thứ I năm 2024 dự kiến tổ chức tối 14/9, Ban tổ chức sẽ tiến hành đấu giá sinh vật cảnh để gây quỹ ủng hộ đồng bào bị ảnh hưởng lụt bão.
Duy trì lực lượng ứng cứu nhanh, sẵn sàng cơ động khi cần thiết Nông thôn mới

Duy trì lực lượng ứng cứu nhanh, sẵn sàng cơ động khi cần thiết

TTTĐ - Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội yêu cầu các đơn vị, lực lượng tăng cường công tác kiểm tra hệ thống đê điều, kịp thời phát hiện và xử lý các sự cố về đê điều ngay từ giờ đầu; chuẩn bị đầy đủ lực lượng, vật tư, phương tiện sẵn sàng ứng phó đối với những tình huống xấu có thể xảy ra.
Hội Nông dân Việt Nam tặng quà tại "rốn lũ" xã Nam Phương Tiến Nông thôn mới

Hội Nông dân Việt Nam tặng quà tại "rốn lũ" xã Nam Phương Tiến

TTTĐ - Ngày 11/9, Phó Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam Bùi Thị Thơm tới thăm, tặng quà, hỗ trợ người dân xã Nam Phương Tiến, huyện Chương Mỹ bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3.
Không để thiếu hụt rau xanh, hàng hóa phục vụ người dân Thủ đô Nông thôn mới

Không để thiếu hụt rau xanh, hàng hóa phục vụ người dân Thủ đô

TTTĐ - Ngay sau khi cơn bão số 3 (YAGI) đi qua, trên địa bàn thành phố Hà Nội và các tỉnh phía Bắc liên tục xảy ra mưa lớn, nước lũ tại các sông cũng dâng cao khiến cuộc sống của nhiều người dân bị ảnh hưởng. Song, với quyết tâm không để người dân nào bị đói, bị rét, không để ai bị bỏ lại phía sau, thành phố Hà Nội đã chỉ đạo các đơn vị kịp thời triển khai biện pháp bảo đảm cung cầu hàng hóa, báo cáo ngay khi xảy ra tình trạng thiếu hàng, tăng giá đột biến.
Bài 3: Sau bão lũ, ngành Nông nghiệp cần "liều thuốc đặc biệt" Nông thôn mới

Bài 3: Sau bão lũ, ngành Nông nghiệp cần "liều thuốc đặc biệt"

TTTĐ - Các chuyên gia cho rằng, sau bão lũ nặng nề, để phục hồi sản xuất có hiệu quả, ngành Nông nghiệp Thủ đô cần xây dựng chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển cây trồng vụ đông. Trong các chính sách hỗ trợ, ngành cần chú trọng giống, thuốc bảo vệ thực vật, chi phí làm đất theo hướng sản xuất hàng hoá.
Bước đột phá trong mô hình 1 triệu ha lúa chất lượng cao Nhịp sống phương Nam

Bước đột phá trong mô hình 1 triệu ha lúa chất lượng cao

TTTĐ - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa phê duyệt Kế hoạch thực hiện các mô hình thí điểm trong Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp” tại Đồng bằng sông Cửu Long, nhằm hướng tới tăng trưởng xanh đến năm 2030. Trong đó, 7 mô hình thí điểm đã được triển khai tại các tỉnh Cần Thơ, Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang và Đồng Tháp.
Xem thêm