Nghị định 123: Buông hai tay, điều khiển xe máy bằng chân sẽ bị tịch thu phương tiện
Theo Điều 6 của Nghị định 123/2021/NĐ-CP sửa đổi và bổ sung cho Nghị định 100/2019/NĐ-CP, các trường hợp bị tịch thu xe máy bao gồm người điều khiển xe gắn máy buông cả hai tay; điều khiển xe máy bằng chân; ngồi về một bên khi đang điều khiển xe; nằm trên yên xe điều khiển xe, đổi người điều khiển khi xe đang chạy; xoay người về phía sau hoặc bịt mắt điều khiển xe; có hành vi lạng lách hoặc đánh võng khi điều khiển xe trên đường bộ trong hay ngoài đô thị; chạy xe bằng một bánh đối với xe hai bánh, chạy xe bằng hai bánh đối với xe ba bánh; chạy xe thành nhóm từ 02 xe trở lên vượt quá tốc độ quy định.
Hành vi điều khiển xe gắn máy gây tai nạn giao thông không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường hay bỏ trốn sau khi vi phạm không đến trình báo với cơ quan có thẩm quyền, không tham gia cấp cứu người bị nạn cũng sẽ bị tịch thu xe.
Ngoài ra, theo khoản 15 Điều 30 Nghị định 123/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 100/2019/NĐ-CP, những trường hợp sau đây cũng sẽ bị tịch thu xe máy. Cụ thể, người điều khiển sử dụng xe hoặc tự ý cắt, hàn, đục lại số khung, số máy; đưa phương tiện đã bị cắt, hàn, đục lại số khung, số máy trái quy định tham gia giao thông; người điều khiển không chứng minh được nguồn gốc xuất xứ của phương tiện trong các trường hợp như không có giấy tờ, chứng từ chuyển quyền sở hữu xe hoặc giấy tờ, chứng từ nguồn gốc xe hợp pháp:
Không có Giấy đăng ký xe theo quy định, sử dụng Giấy đăng ký xe đã hết hạn sử dụng, sử dụng Giấy đăng ký xe bị tẩy xóa hay sử dụng Giấy đăng ký xe không đúng số khung, số máy của xe hoặc không do cơ quan có thẩm quyền cấp cũng sẽ bị tịch thu xe.
Khi bị lỗi tịch thu xe máy, người vi phạm sẽ không lấy lại được phương tiện. Trừ trường hợp chủ xe đã đăng ký biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản theo quy định của luật dân sự, trong trường hợp đó, cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ngân sách nhà nước.
Ảnh: FB