Can thiệp nội mạch thành công ca vỡ phình động mạch gan hiếm gặp
Bệnh nhân nữ P.T.H.M (53 tuổi, địa chỉ ở Vĩnh Long) được đưa đến Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ khám vào lúc 21h20 ngày 30/11 với tình trạng ra huyết âm đạo khoảng 1 tháng, đau bụng hạ vị. Bệnh nhân được chỉ định nhập viện khoa Phụ sản theo dõi và điều trị với chẩn đoán u xơ tử cung.
Ngày 10/12, bệnh nhân đột ngột đau bụng vùng thượng vị dữ dội, huyết áp thấp, mạch nhanh nhẹ, niêm nhợt, da xanh (dấu hiệu của mất máu cấp). Bệnh nhân được hồi sức tích cực: Bù dịch, bù máu 6 đơn vị, hồng cầu lắng 350ml cùng nhóm. Kết quả chụp cắt lớp vi tính bụng có cản quang ghi nhận ổ giả phình được cấp máu từ động mạch gan trái kích thước to, tụ máu cạnh bao gan.
Hình ảnh ghi nhận ổ giả phình được cấp máu từ động mạch gan trái kích thước to, tụ máu cạnh bao gan trước và sau can thiệp |
Bệnh nhân có chỉ định can thiệp chụp và nút động mạch điều trị cầm máu các tạng số xóa nền (DSA) với chẩn đoán: Xuất huyết nội do vỡ phình động mạch gan trái. Kết quả ghi nhận ổ giả phình động mạch gan trái, kích thước #15x22mm kèm phình động mạch gan trái (mở rộng theo chu vi của động mạch); thực hiện chọn lọc vào nhánh động mạch gan trái có tổn thương, xác định vị trí và tiến hành thả 3 vòng xoắn kim loại (coils) vào ổ giả phình, tiếp tục bơm hỗn hợp keo sinh học gây bít tắc hoàn toàn túi phình.
Sau 90 phút can thiệp, bệnh nhân ổn định được chuyển khu hậu phẫu theo dõi.
Tình trạng hiện tại (ngày 12/12/2023), bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt, niêm hồng, hết đau bụng, sinh tồn ổn định, đang được theo dõi và điều trị tại khoa Ngoại tổng hợp.
BSCKII Trần Công Khánh, Phó Trưởng khoa Chẩn đoán hình ảnh - bác sĩ can thiệp trực tiếp cho bệnh nhân, thông tin: Phình động mạch gan là một bệnh hiếm gặp (0,002% - 0,4%). Phình động mạch gan là chứng phình động mạch nội tạng phổ biến thứ hai với tỷ lệ mắc 20% và có tỷ lệ vỡ cao nhất 44% được báo cáo. Đây là hậu quả của quá trình thoái hóa hoặc loạn sản của các mạch máu trong gan. Nguyên nhân thường gặp nhất của phình động mạch gan là do xơ vữa mạch máu, kế đến là viêm mạch, u đường mật, suy giảm miễn dịch, nhiễm trùng đường mật, ghép gan...
Bệnh cảnh lâm sàng của phình động mạch gan thường không đặc hiệu, phụ thuộc vào kích thước của phình mạch. Các phình mạch nhỏ thường không có biểu hiện triệu chứng. Nếu phình mạch lớn hơn có thể bao gồm đau thượng vị, tắc mật, vỡ và tử vong.
Có nhiều phương tiện giúp chẩn đoán được phình động mạch gan như siêu âm bụng, chụp cắt lớp vi tính và cắt lớp vi tính mạch máu, chụp cộng hưởng từ hoặc chụp mạch máu xóa nền. Trong đó, phương pháp chụp cắt lớp vi tính mạch máu có khả năng phát hiện phình động mạch gan lên đến 100%.
Kích thước và vị trí của phình động mạch, tuổi bệnh nhân và bệnh đi kèm có vai trò quan trọng trong việc xác định phương pháp tiếp cận cụ thể. Phương pháp can thiệp nội mạch làm bít tắc phình mạch có tỷ lệ thành công cao đối với mọi nguyên nhân gây phình động mạch gan. Đây là phương pháp an toàn, nhanh chóng và xâm lấn tối thiểu.
Bệnh nhân nữ P.T.H.M (53 tuổi, địa chỉ ở Vĩnh Long) đã ổn định sau can thiệp |
Hiện nay, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ đã thực hiện thành công các kỹ thuật điện quang can thiệp cấp cứu như: Đột quỵ não, chấn thương các tạng ổ bụng, ho ra máu sét đánh, đái máu, xuất huyết tiêu hóa cấp, chảy máu sau sinh, vỡ phình mạch tạng, chảy máu mũi, chấn thương chảy máu hàm mặt, khung chậu… Qua đó, nhiều bệnh nhân nặng, nguy kịch đã được cứu sống.
Ngoài ra, kỹ thuật nút mạch cũng được bệnh viện triển khai trong điều trị u thận, u xơ tử cung và điều trị u gan bằng phương pháp nút mạch hóa chất động mạch gan (TACE).