TS. Nguyễn Sĩ Dũng – nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
Nghẽn thể chế là tình trạng luật lệ, quy trình hành chính không hiệu quả, tạo rào cản cho việc thực thi chính sách, cản trở sự tiến bộ kinh tế - xã hội, từ đó làm giảm niềm tin của doanh nghiệp và người dân vào quản lý công.
Phát biểu trong phiên khai mạc Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội ngày 21/10/2024, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Trong ba điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn”.
Nghẽn thể chế được coi là "điểm nghẽn của điểm nghẽn", vì nó chính là nguyên nhân cốt lõi làm chậm tiến độ và giảm hiệu quả của hầu hết các hoạt động phát triển. Các điểm nghẽn khác như thiếu cơ sở hạ tầng, thiếu nguồn nhân lực hay thiếu vốn, công nghệ đều khó được tháo gỡ hơn khi vướng phải các cơ chế và quy trình phức tạp và bất cập của thể chế. Chính vì vậy, nghẽn thể chế là nút thắt cơ bản cần được giải quyết đầu tiên để mở ra không gian cho các giải pháp khác.
Nghẽn thể chế là tình trạng các luật lệ hoặc quy trình hành chính không hiệu quả, gây cản trở cho nền quản trị và sự tiến bộ kinh tế hoặc xã hội. Điều này xảy ra khi các quy định pháp luật quá phức tạp, lỗi thời hoặc thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, dẫn đến sự chậm trễ và làm tăng thêm chi phí cho cả khu vực công lẫn khu vực tư. Nghẽn thể chế làm hạn chế tính linh hoạt của hệ thống, làm chậm quá trình ra quyết định và tạo ra rào cản cho việc thực thi chính sách, từ đó làm giảm niềm tin của người dân và doanh nghiệp vào quản lý công.
Có thể dẫn ra hai ví dụ về nghẽn thể chế. Ví dụ thứ nhất là quy trình phê duyệt đầu tư công. Việt Nam có quy trình phê duyệt đầu tư công phức tạp và kéo dài, với nhiều tầng lớp xét duyệt từ cấp địa phương lên đến Trung ương. Mỗi dự án đầu tư công, dù lớn hay nhỏ, đều phải trải qua nhiều bước phê duyệt và kiểm tra từ các cơ quan khác nhau, gây ra sự chậm trễ lớn.
Ví dụ thứ hai cụ thể hơn là quá trình cấp phép và triển khai dự án sân bay Long Thành. Sân bay quốc tế Long Thành, dự án hạ tầng quy mô lớn và quan trọng, được phê duyệt từ năm 2005 nhưng mãi đến năm 2021 mới chính thức khởi công giai đoạn đầu. Dự án này được kỳ vọng sẽ giảm tải cho sân bay Tân Sơn Nhất và thúc đẩy phát triển kinh tế cho vùng Đông Nam Bộ, nhưng lại bị kéo dài hàng chục năm do nghẽn thể chế.
Phối cảnh công trình sân bay Long Thành. Theo Nghị quyết 94 của Quốc hội về chủ trương đầu tư dự án sân bay Long Thành, dự án sân bay Long Thành giai đoạn 1 “chậm nhất năm 2025 hoàn thành và đưa vào khai thác”.
Ảnh: Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ
Sân bay Long Thành có tổng đầu tư khái toán 336.630 tỉ đồng, chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu dự án sẽ xây một đường cất hạ cánh, nhà ga hành khách cùng các hạng mục phụ trợ với công suất 25 triệu khách một năm, dự kiến hoàn thành năm 2025.
Giai đoạn hai, sân bay được xây thêm một đường cất hạ cánh và nhà ga để đạt công suất 50 triệu khách một năm, hoàn thành năm 2035. Các hạng mục còn lại hoàn thành trong giai đoạn 3 để công trình đạt công suất 100 triệu khách một năm, hoàn thành năm 2050.
Ảnh: Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ
Hình ảnh thi công nhà ga hành khách sân bay Long Thành.
Ảnh: TTXVN
Quá trình thực hiện dự án đầu tư xây dựng sân bay Long Thành gặp nhiều vướng mắc khiến dự án có thể kéo dài đến cuối năm 2026, thay vì hoàn thành chậm nhất trong năm 2025 theo yêu cầu của Quốc hội.
Ảnh: TTXVN
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhiều lần điểm tên dự án sân bay Long Thành chậm tiến độ. Trong công điện hôm 18/4/2023, Thủ tướng yêu cầu Bộ GTVT, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đánh giá năng lực triển khai dự án của ACV, làm rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân làm chậm dự án.
Ảnh: TTXVN
Dự án phải trải qua nhiều vòng phê duyệt từ các cơ quan khác nhau ở cả cấp địa phương và trung ương, dẫn đến sự chậm trễ. Mỗi thay đổi hay điều chỉnh trong dự án lại cần thêm thời gian để phê duyệt.
Quá trình giải phóng mặt bằng và tái định cư cho hàng nghìn hộ dân gặp nhiều trở ngại do thiếu sự đồng thuận và phối hợp giữa các cơ quan. Các cơ chế đền bù và tái định cư thiếu linh hoạt, làm cho công tác này kéo dài và gây phản ứng từ người dân bị ảnh hưởng.
Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cùng với các cơ quan địa phương, đều có vai trò trong việc triển khai dự án, nhưng sự phối hợp chưa hiệu quả khiến quy trình bị kéo dài và không nhất quán.
Những điểm nghẽn thể chế nói trên đã làm chậm tiến độ dự án, gia tăng chi phí, và giảm hiệu quả kinh tế của dự án.
Có một loạt nguyên nhân gây nghẽn thể chế. Dưới đây là một số nguyên nhân cơ bản.
Đầu tiên là các quy định lỗi thời. Các luật và chính sách không được cập nhật để phản ánh thực tế hiện tại có thể dẫn đến sự kém hiệu quả, vì chúng có thể không còn phù hợp với những thay đổi về xã hội, kinh tế hoặc công nghệ.
Một ví dụ điển hình về các quy định lỗi thời gây ra nghẽn thể chế là quy định về điều kiện sản xuất và kinh doanh tại Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ và dịch vụ số.
Cụ thể, nhiều quy định trong các ngành công nghệ, như việc cấp phép kinh doanh trong lĩnh vực fintech (công nghệ tài chính) và dịch vụ nền tảng số, vẫn dựa trên các luật từ hàng chục năm trước, khi internet và công nghệ số chưa phát triển như hiện nay. Những quy định này thiếu các điều khoản phù hợp với đặc thù của kinh tế số, tạo ra rào cản cho các doanh nghiệp công nghệ.
Hệ quả là các doanh nghiệp công nghệ gặp khó khăn trong việc xin cấp phép và thực hiện các hoạt động kinh doanh do phải tuân thủ các quy định không còn phù hợp.
Thứ hai là bộ máy và quy trình hành chính quá phức tạp. Sự chồng chéo trong quản lý và các quy trình phê duyệt phức tạp tạo ra sự chậm trễ, khiến cho việc phản hồi nhanh chóng và hiệu quả trước những nhu cầu cấp bách trở nên khó khăn hơn.
Một ví dụ điển hình về bộ máy hành chính phức tạp gây nghẽn thể chế là quy trình phê duyệt các dự án đầu tư xây dựng tại Việt Nam.
Cụ thể, để thực hiện một dự án đầu tư xây dựng, doanh nghiệp phải qua nhiều khâu phê duyệt từ các cơ quan khác nhau như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Xây dựng, Bộ Công an… cùng các cơ quan địa phương. Mỗi bước phê duyệt lại bao gồm nhiều quy trình nhỏ lẻ, yêu cầu hàng chục loại giấy phép và tài liệu khác nhau.
Hệ quả là doanh nghiệp phải mất nhiều thời gian chờ đợi để hoàn tất các thủ tục. Mỗi bước đòi hỏi thời gian thẩm định và phê duyệt khác nhau, dẫn đến dự án bị trì hoãn, làm tăng chi phí đầu tư và giảm tính hiệu quả. Quá trình xin cấp phép kéo dài buộc các nhà đầu tư phải chịu thêm chi phí quản lý, hành chính, và lãi vay trong thời gian chờ đợi, từ đó làm tăng tổng chi phí dự án.
Thứ ba là sự thiếu phối hợp giữa các cơ quan. Khi các cơ quan nhà nước không hợp tác hiệu quả, các nỗ lực của họ có thể bị trùng lặp, mâu thuẫn hoặc phản tác dụng, dẫn đến sự phân mảnh và kém hiệu quả trong hoạt động.
Một ví dụ điển hình về thiếu phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan gây nghẽn thể chếlàdự án đường sắt đô thị tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Cụ thể, các dự án đường sắt đô thị ở cả Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, gồm tuyến Cát Linh - Hà Đông (Hà Nội) và Bến Thành - Suối Tiên (TP. Hồ Chí Minh), đã gặp rất nhiều khó khăn do sự thiếu phối hợp giữa các cơ quan từ trung ương đến địa phương và các bộ ngành liên quan như Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Sự phối hợp kém giữa các cơ quan dẫn đến việc không đồng bộ trong quản lý tiến độ thi công, điều chỉnh vốn và giải phóng mặt bằng. Các bên phải chờ nhau xử lý từng khâu một, gây chậm trễ kéo dài hàng chục năm.
Thứ tư là khung pháp lý cứng nhắc. Các quy định nghiêm ngặt, không linh hoạt và không có điều chỉnh phù hợp cho từng trường hợp cụ thể có thể cản trở sự đổi mới và hạn chế các giải pháp cho các vấn đề độc đáo hoặc mới phát sinh.
Một ví dụ điển hình về khung pháp lý cứng nhắc gây nghẽn thể chế là các quy định liên quan đến đất đai và giải phóng mặt bằng tại Việt Nam.
Cụ thể, Luật Đất đai hiện tại quy định chặt chẽ về quyền sử dụng đất, quy trình đền bù và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, nhưng lại thiếu linh hoạt trong các trường hợp đặc thù. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho các dự án phát triển hạ tầng, đặc biệt là các dự án quy mô lớn như xây dựng đường cao tốc, khu công nghiệp và khu đô thị mới.
Quy trình giải phóng mặt bằng thường bị kéo dài do các quy định đền bù và tái định cư không linh hoạt, gây khó khăn trong việc thỏa thuận với người dân. Điều này khiến tiến độ của các dự án bị chậm lại, làm ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển hạ tầng.
khung pháp lý cứng nhắc về đất đai buộc chính quyền địa phương phải tuân thủ các quy trình đền bù phức tạp, dẫn đến việc chi phí cho công tác giải phóng mặt bằng tăng lên, gây lãng phí ngân sách và làm giảm hiệu quả đầu tư.
Thứ năm là thiếu minh bạch và trách nhiệm giải trình. Thiếu cơ chế minh bạch và trách nhiệm giải trình có thể khiến các tổ chức công vận hành theo cách không hiệu quả hoặc có tham nhũng, làm chậm tiến độ và giảm lòng tin.
Một ví dụ nổi bật về thiếu minh bạch và trách nhiệm giải trình gâynghẽn thể chế là tình trạng quản lý và sử dụng ngân sách công tại một số dự án đầu tư công lớn.
Cụ thể, trong nhiều dự án đầu tư công, như các dự án đường cao tốc hoặc bệnh viện công quy mô lớn, thường xảy ra tình trạng thiếu minh bạch về việc sử dụng nguồn vốn và thiếu trách nhiệm giải trình từ phía các đơn vị thực hiện. Điều này có thể bao gồm chi phí vượt dự toán, không rõ ràng trong các hạng mục chi phí hoặc phân bổ ngân sách thiếu hợp lý.
Hệ quả là khi thông tin về ngân sách và tiến độ sử dụng vốn không được công khai minh bạch, nguy cơ lãng phí hoặc thậm chí tham nhũng sẽ tăng cao. Việc sử dụng nguồn lực không hiệu quả gây thiệt hại cho ngân sách quốc gia và làm giảm hiệu quả của các dự án công cộng.
Thiếu trách nhiệm giải trình khiến quá trình phê duyệt và giám sát dự án gặp khó khăn, vì không có căn cứ rõ ràng để kiểm tra và đánh giá hiệu quả sử dụng ngân sách. Điều này dẫn đến chậm trễ trong việc hoàn thành dự án và ảnh hưởng đến các bên liên quan, đặc biệt là người dân thụ hưởng các công trình công cộng.
Thứ sáu là thiếu nguồn lực và năng lực. Thiếu nhân sự được đào tạo, công nghệ hiện đại hoặc kinh phí cần thiết có thể hạn chế nghiêm trọng khả năng của một cơ quan trong việc thực hiện và áp dụng chính sách một cách hiệu quả. Đây là một nguyên nhân quá rõ, nên, có lẽ, không cần phải đưa ra ví dụ để chứng minh.
Thứ bảy là sự kháng cự với thay đổi. Sự trì trệ trong hệ thống, nơi có sự không sẵn lòng thích ứng với các phương pháp mới hoặc cải tiến các quy trình hiện có, thường dẫn đến nghẽn thể chế, đặc biệt là trong các tổ chức kháng cự với cải cách.
Một ví dụ điển hình về sự kháng cự với thay đổi gây ra nghẽn thể chếlàtình trạngchậm trễ trong cải cách thủ tục hành chính và áp dụng chuyển đổi số trong cơ quan nhà nước tại Việt Nam.
Cụ thể, mặc dù Chính phủ đã có chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi số và cải cách hành chính để tăng cường hiệu quả và minh bạch, nhiều cơ quan và đơn vị vẫn tỏ ra thụ động hoặc chậm chạp trong việc áp dụng công nghệ và đơn giản hóa thủ tục. Nguyên nhân chủ yếu đến từ tâm lý ngại thay đổi, lo ngại về sự giám sát chặt chẽ hơn qua các hệ thống số hóa và thói quen làm việc truyền thống.
Hệ quả là các cơ quan nhà nước chậm áp dụng công nghệ số và quy trình mới, dẫn đến việc giải quyết hồ sơ và thủ tục cho người dân và doanh nghiệp bị kéo dài, gây bất tiện và tốn kém thời gian, chi phí.
Với bảy nguyên nhân gây nghẽn thể chế như đã trình bày ở trên, thì các giải pháp để tháo gỡ cũng đã khá rõ.
Giải pháp thứ nhất là cập nhật và cải tiến quy định pháp lý. Thường xuyên rà soát, cập nhật và điều chỉnh các luật và quy định để phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong các lĩnh vực mới như công nghệ và kinh tế số. Điều này giúp các chính sách linh hoạt hơn và bắt kịp với xu hướng toàn cầu.
Giải pháp thứ hai là đơn giản hóa bộ máy hành chính. Tinh gọn quy trình và giảm bớt các thủ tục không cần thiết, đồng thời phân quyền rõ ràng cho các cơ quan nhằm tăng hiệu quả xử lý. Áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về quản lý công để tối ưu hóa bộ máy hành chính.
Giải pháp thứ ba là tăng cường phối hợp giữa các cơ quan. Thiết lập các cơ chế phối hợp liên ngành và liên cơ quan, đồng thời khuyến khích chia sẻ thông tin và phối hợp nhịp nhàng trong xử lý công việc. Sử dụng hệ thống công nghệ thông tin để liên kết và quản lý các hoạt động chung, giúp các cơ quan dễ dàng trao đổi và phối hợp.
Giải pháp thứ tư là bảo đảm sự linh hoạt trong khung pháp lý. Xây dựng các cơ chế cho phép áp dụng linh hoạt trong một số trường hợp đặc biệt và có ngoại lệ phù hợp để xử lý các tình huống đặc thù. Các quy định cần có khoảng trống cho phép địa phương hoặc ngành có quyền tự điều chỉnh trong phạm vi cho phép.
Giải pháp thứ năm là bảo đảm minh bạch và trách nhiệm giải trình. Tăng cường công khai, minh bạch thông tin về các quy trình và quyết định quan trọng, đặc biệt là liên quan đến ngân sách và các dự án công. Thiết lập cơ chế giám sát độc lập và hệ thống đánh giá hiệu quả để đảm bảo trách nhiệm giải trình của các cơ quan và cá nhân.
Giải pháp thứ sáu là đầu tư vào nâng cao năng lực và nguồn lực. Đảm bảo cung cấp đủ nguồn lực về tài chính, nhân sự và trang thiết bị cần thiết cho các cơ quan hành chính công. Đào tạo cán bộ với kỹ năng quản lý hiện đại và công nghệ để đáp ứng nhu cầu công việc hiệu quả hơn.
Giải pháp thứ bảy là khuyến khích tư duy đổi mới và thúc đẩy chuyển đổi số. Xây dựng văn hóa tổ chức sẵn sàng thay đổi, khuyến khích sự đổi mới và tạo động lực cho cán bộ ứng dụng công nghệ số vào công việc hàng ngày. Các đơn vị quản lý cần tiên phong và chủ động trong cải tiến phương thức làm việc, sử dụng dữ liệu số và nền tảng trực tuyến để nâng cao hiệu suất.
Những giải pháp nói trên sẽ giúp tháo gỡ nghẽn thể chế, tạo điều kiện cho hệ thống vận hành hiệu quả, linh hoạt và đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong kỷ nguyên mới- kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Bài viết: TS. Nguyễn Sĩ Dũng
Biên tập: Minh Hoàn
Thiết kế: Thanh Nga - Hoàng Minh
Kỹ thuật đa phương tiện: Việt Cường
© Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội