ĐỀ ÁN "PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 1 TRIỆU HA CHUYÊN CANH LÚA CHẤT LƯỢNG CAO VÀ PHÁT THẢI THẤP GẮN VỚI TĂNG TRƯỞNG XANH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (ĐBSCL) ĐẾN NĂM 2030" CÓ Ý NGHĨA ĐẶC BIỆT QUAN TRỌNG TRONG ĐỊNH HƯỚNG CHUYỂN ĐỔI PHƯƠNG THỨC CANH TÁC LÚA BỀN VỮNG Ở ĐBSCL. ĐỀ ÁN GÓP PHẦN HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CÁC VÙNG NGUYÊN LIỆU TẬP TRUNG QUY MÔ LỚN ỔN ĐỊNH LÂU DÀI, ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG, CANH TÁC BỀN VỮNG VÀ HIỆU QUẢ.
"ĐỀ ÁN 1 TRIỆU HA LÚA CHẤT LƯỢNG CAO, PHÁT THẢI THẤP LÀ CÁCH TIẾP CẬN VÀ TƯ DUY RẤT MỚI, KHÓ THỰC HIỆN NHƯNG NÓ SẼ KÍCH THÍCH CHÚNG TA KHÔNG NGỪNG NỖ LỰC ĐỂ TẠO RA GIÁ TRỊ MỚI, THẤY ĐƯỢC NIỀM VUI, SỰ MỚI MẺ KHI THAM GIA VÀO CÔNG VIỆC NÀY", BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN (NN&PTNT) CHIA SẺ.
ĐBSCL với diện tích tự nhiên 4.092.000 ha, trong đó 2.575.000 ha đất dùng cho sản xuất nông nghiệp, là một trong các vùng sản xuất lúa gạo chính của Việt Nam. Sản lượng lúa tại vùng những năm gần đây luôn ổn định ở mức 24-25 triệu tấn, chiếm trên 55% sản lượng lúa sản xuất và trên 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước, tạo việc làm và thu nhập cho hàng triệu hộ sản xuất nông nghiệp trong vùng.
Với sản lượng lúa gạo lớn, ĐBSCL tạo ra khoảng 26-27 triệu tấn rơm rạ, trong đó 70% được đốt và vùi vào đất, 30% còn lại được thu gom sử dụng cho trồng nấm, phủ gốc cây trồng, đệm lót vận chuyển trái cây, là thức ăn gia súc. Việc đốt rơm rạ gây ô nhiễm môi trường trong khi vùi rơm rạ vào ruộng ngập nước làm tăng phát thải khí methane (CH4) và khí nhà kính khác. Thực trạng này đặt ra yêu cầu phải quản lý rơm rạ theo hướng nông nghiệp tuần hoàn nhằm tăng tối đa dinh dưỡng chứa trong rơm, giảm thất thoát dinh dưỡng, giảm ô nhiễm môi trường, giảm phát thải khí nhà kính đồng thời tăng thu nhập cho người trồng lúa và các dịch vụ sản xuất thương mại liên quan.
Mặt khác trong thời gian gần đây, yêu cầu của thị trường ngày càng cao, quy định của các nước nhập khẩu ngày càng nghiêm ngặt, đòi hỏi chất lượng gạo phải được nâng cao, phải bảo đảm an toàn thực phẩm, trong đó có việc giảm thiểu sử dụng đầu vào sản xuất có nguồn gốc hóa học, sản xuất giảm phát thải. Bên cạnh đó, tại COP26, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký cam kết phấn đấu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Trước bối cảnh trên, Chính phủ đã phê duyệt Đề án "Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030". Đề án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong định hướng chuyển đổi phương thức canh tác lúa bền vững ở ĐBSCL và hình thành, phát triển các vùng nguyên liệu tập trung quy mô lớn ổn định lâu dài, bảo đảm chất lượng canh tác bền vững và hiệu quả.
Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan tuyên bố phát động triển khai thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao gắn với phát thải thấp, tăng trưởng xanh tại vùng ĐBSCL đến năm 2030 |
Đề án đưa ra mục tiêu giảm 30% chi phí đầu vào, góp phần giảm chi phí sản xuất lúa cho các hộ nông dân khoảng 9.500 tỷ đồng; tỉ suất lợi nhuận của người trồng lúa tăng 50%; góp phần giảm 10% lượng khí nhà kính phát thải.
Đề án gắn với tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình canh tác bền vững nhằm gia tăng giá trị, phát triển bền vững của ngành lúa gạo, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thu nhập và đời sống của người trồng lúa, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính, góp phần thực hiện các cam kết của Việt Nam với quốc tế.
Trong quá trình triển khai Đề án, sẽ có một số chính sách mới, phù hợp với xu hướng toàn cầu được thực hiện thí điểm như chi trả tín chỉ carbon dựa vào kết quả cho 1 triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh, sản xuất tuần hoàn, khai thác đa giá trị trong sản xuất lúa với các chính sách cơ chế về đầu tư hoặc tín dụng với mục tiêu thu hút các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, chế biến lúa gạo.
Từ thí điểm thành công, mô hình này tại ĐBSCL sẽ được mở rộng ra toàn quốc, hướng tới mục tiêu đưa "Phát triển xanh, giảm phát thải, chất lượng cao" trở thành thương hiệu của lúa gạo Việt Nam.
Phát biểu tham luận tại Hội nghị triển khai Đề án "Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030", đại diện các hiệp hội, các viện nghiên cứu và các địa phương đều đánh giá Đề án là "luồng gió mới", thể hiện quyết tâm mới của Chính phủ trong việc từng bước hiện đại hoá ngành sản xuất lúa gạo của cả nước.
Đề án không chỉ mang lại lợi ích trực tiếp cho gần 1,5 triệu người nông dân, mà còn góp phần khẳng định Việt Nam là quốc gia có trách nhiệm trong bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu và giảm phát thải khí nhà kính.
Gợi mở nhiều định hướng, giải pháp để triển khai Đề án mang lại hiệu quả thực chất, nhiều chuyên gia nhấn mạnh phải đặc biệt chú trọng đến công tác đào tạo để người nông dân nắm vững, thuần thục những gói hỗ trợ kỹ thuật; sớm đưa vào chương trình càng nhanh, càng tốt những tiến bộ khoa học công nghệ, giống lúa có đặc điểm nổi trội về dinh dưỡng; có hệ thống giám sát, báo cáo được quốc tế công nhận để sản phẩm của Đề án thực sự là "gạo chất lượng cao, carbon thấp".
Các chuyên gia cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải có cơ chế quy định rõ lợi ích của các doanh nghiệp khi tham gia triển khai Đề án; đầu tư mạnh mẽ cho cơ giới hoá và hệ thống hạ tầng thuỷ lợi để giữ nước ngọt phục vụ sản suất lúa gạo; có cơ chế điều phối hoạt động xuất khẩu gạo để bảo đảm tối đa quyền lợi của người nông dân và ngành hàng xuất khẩu gạo của Việt Nam; tăng cường công tác thông tin, truyên truyền nâng cao nhận thức về Đề án.
Các tham luận nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ về lúa gạo cấp quốc gia để chuẩn bị tâm thế cho 5-10 năm tới; thí điểm chương trình tín chỉ carbon trong bối cảnh các tổ chức quốc tế cam kết sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam về tài chính và tiếp cận thị trường.
Các chuyên gia cho rằng, cần thiết phải lồng ghép Đề án với các chương trình khác; tăng cường huy động nguồn lực cho Đề án thông qua hình thức đối tác công-tư; tăng cường hợp tác quốc tế.
Kết luận Hội nghị, đồng chí Trần Lưu Quang (khi đó là Phó Thủ tướng Chính phủ) nhấn mạnh hình ảnh, vị thế quốc tế của Việt Nam tiếp tục được nâng cao trong thời gian qua, trong đó có đóng góp của ngành lúa gạo trong bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu trong khi một số quốc gia ngưng xuất khẩu gạo.
Trong các cuộc giao thiệp ngoại giao, các nước, các tổ chức quốc tế đều đánh giá cao thành tựu phát triển nông nghiệp của Việt Nam và mong muốn Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ nhiều quốc gia phát triển nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực.
Đánh giá cao các ý kiến phát biểu tâm huyết tại Hội nghị, đồng chí Trần Lưu Quang đã nhấn mạnh Đề án là cuộc chơi lớn, vì thế có 4 cái khó: Khó vì lần đầu tiên đặt ra mục tiêu 1 triệu ha lúa chất lượng cao, giảm phát thải; khó vì thay đổi thói quen trong canh tác nông nghiệp; khó vì luôn bị tác động ngay lập tức từ sự thay đổi thất thường của giá gạo trên thị trường; khó thống nhất ở một số việc liên quan đến lợi ích của một số tổ chức, cá nhân, điển hình như việc thống nhất giá gạo xuất khẩu.
Để cuộc chơi lớn đạt được mục tiêu đề ra, chúng ta cần có nguyên tắc 10 chữ: Hết lòng, tuân thủ, linh hoạt, hợp tác, kiểm soát.
Chúng ta cần có sự chung tay của Chính phủ, các địa phương, doanh nghiệp để từng bước thúc đẩy từng người nông dân có thái độ "hết lòng" với Đề án này. Kinh nghiệm cho thấy việc gì khó, nếu có cách tiếp cận đúng, phương pháp đúng và quyết tâm là làm được, điển hình như trong chống dịch COVID-19 Việt Nam đứng thứ 9 trên thế giới về kết quả phòng chống dịch.
Tuy nhiên, nếu không "tuân thủ" kế hoạch, nguyên tắc, tiêu chuẩn là chúng ta thất bại; đồng thời cũng phải "linh hoạt", sáng tạo trong cách ứng xử, phù hợp với từng vùng, từng địa phương và đặc biệt phải thích ứng với tác động ngày một nghiêm trọng, khó đoán định của biến đổi khí hậu.
Trong khí đó, việc "hợp tác" tốt, trước hết là trong đàm phán các khoản vay, phối hợp giữa các cơ quan Trung ương với nhau, giữa Trung ương với địa phương, giữa doanh nghiệp với nhau. Chúng ta sẽ thất bại nếu các doanh nghiệp tham gia Đề án này bằng cách riêng, không giống ai của mình, không có sự tuân thủ và phối hợp; bên cạnh đó, phải lồng ghép tốt các chương trình để tạo sức mạnh tổng hợp mới có thể cùng thắng.
Ngoài ra, việc "kiểm soát" tốt để không lệch chuẩn, không lệch hướng và kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế trên cơ sở thường xuyên sơ kết, tổng kết, đặt biệt là những mô hình, cách làm hay cũng rất quan trọng.
Trước đó, cuối năm 2023, phát biểu tại buổi lễ phát động Đề án phát triển bền vững 1 triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030 tại tỉnh Hậu Giang, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan cho biết: Trong quá trình triển khai Đề án, sẽ thực hiện thí điểm chính sách mới như chi trả tín chỉ các-bon dựa trên kết quả; tập trung vào sản xuất phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh; phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng tuần hoàn, tận dụng tối đa phụ phẩm từ sản xuất lúa gạo; khai thác đa giá trị, tạo ra nhiều sản phẩm chế biến từ lúa gạo... Các thí điểm thành công tại vùng ĐBSCL sẽ được mở rộng ra toàn quốc, hướng tới mục tiêu đưa phát triển xanh, giảm phát thải, chất lượng cao trở thành thương hiệu của ngành lúa gạo Việt Nam.
“Từ những chính sách mới và đột phá của Đề án sẽ hướng tới mục tiêu quan trọng nhất là tạo sinh kế và định hướng phát triển bền vững cho người nông dân trồng lúa - là chủ thể, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn và quá trình triển khai Đề án này chính là từng nấc thang đưa người trồng lúa đến với sự thịnh vượng…”, ông Lê Minh Hoan nhấn mạnh.
Những chính sách mới và đột phá của Đề án phát triển bền vững 1 triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030 không chỉ tạo sinh kế cho người dân mà còn định hướng phát triển bền vững vùng ĐBSCL. Do vậy, hiện nay các cấp chính quyền, hợp tác xã, người dân các địa phương vùng ĐBSCL đang vào cuộc quyết liệt để góp phần thực hiện thành công Đề án.
(Còn nữa)
|
Thực hiện: Tuấn Anh - Minh Quang |
|